Thiền trong nghệ thuật bắn cung

Bắn cung và Thiền trong Phật pháp có mối tương quan mật thiết, hi vọng qua quyến sách này giúp anh em có cái nhìn mới mẻ và giác ngộ.
Cungtenhanoi cảm ơn quý độc giả và các bạn yêu thích môn bắn cung, mong nhận được sư đồng hành và ủng hộ của quý đôc giả, lan tỏa nhiều hơn giá trị của bắn cung với cuộc sống!
Nội dung gồm 9 Chương:

CHƯƠNG 1: MÔN BẮN CUNG VÀ THIỀN
CHƯƠNG 2: TẠI SAO TÔI HỌC THIỀN
CHƯƠNG 3: NGHỆ CỦA VÔ NGHỆ
CHƯƠNG 4: LẤY TÂM KÉO CUNG
CHƯƠNG 5: CHỦ ĐỀ CỦA MÔN HỌC BẮN CUNG
CHƯƠNG 6: ĐẠI ĐẠO CỦA MÔN BẮN CUNG
CHƯƠNG 7: TỐT NGHIỆP KHẢO THÍ
CHƯƠNG 7: TRI CỦA BẤT ĐỘNG
CHƯƠNG 9: THIỀN TRONG KIẾM THUẬT
———————————————————————————————-
CHƯƠNG 1

MÔN BẮN CUNG VÀ THIỀN

Nhìn thoáng qua, người ta có thể thấy rằng việc liên kết Thiền – bất cứ độc giả hiểu chữ này như thế nào – với một hành động thế tục của môn bắn cung là làm giảm giá trị của Thiền một cách không thể tha thứ được. Dù nếu độc giả sẵn lòng nhân nhượng và coi môn bắn cung như là một “nghệ thuật” chăng nữa, họ cũng chẳng muốn tìm kiếm điều gì khác hơn là một hình thức thể thao, từ phía sau cái nghệ thuật này.

Vì thế, độc giả có thể sẽ kỳ vọng quyển sách này mách cho họ biết về tuyệt kỹ thần bí của giới xạ thủ Nhật Bổn. Những xạ thủ này đều là giới cung thủ được thừa hưởng một truyền thống lâu đời và bất tuyệt của môn bắn cung. Bởi vì ở Viễn Đông các loại phương pháp tác chiến xưa cũ chỉ bị vũ khí hiện đại thay thế trong thời gian vài thế hệ mà thôi. Thân chủ của giới xạ thủ vẫn còn thành thạo, môn bắn cung không những chưa bị phế bỏ mà còn ngày càng phát triển hơn trong mọi giới của người Nhật. Tại Nhật Bổn ngày nay, nghệ thuật bắn cung được đẩy mạnh và xem là môn thể thao toàn quốc. Vì vậy, có lẽ độc giả trông đợi quyển sách này tường thuật các phương pháp đặc biệt của nó.

Kỳ vọng đó thật là quá đỗi sai lầm. Vì trên ý nghĩa truyền thống đối với xạ nghệ, người Nhật tôn nó thành nghệ thuật, coi như di sản quốc gia, nhưng lại không coi nó là môn thể thao. Thoạt nghe tuy có vẻ khác thường, nhưng người Nhật xem xạ nghệ như nghi thức tôn giáo. Do đó “nghệ” của xạ nghệ chẳng phải nói về thể thao gia tập luyện thân thể mà nói về năng lực phát huy từ việc rèn luyện tâm linh, với mục đích bắn trúng mục tiêu tâm linh. Cho nên, trên căn bản, xạ thủ nhắm vào chính mình và thậm chí có thể thành công trong việc bắn trúng chính mình.

Điều này có lẽ khiến cho độc giả cảm thấy khó hiểu và hỏi: “Cái gì? Ông muốn chúng tôi tin rằng môn bắn cung từng có thời dùng để quyết chiến sanh tử, nhưng bây giờ đã thoái hóa đến nỗi không còn là một môn thể thao mà đã trở thành một phương thức để tập luyện tâm linh? Vậy thì cung, tên, bia còn hữu dụng gì nữa? Có phải như vậy là chối bỏ môn nghệ thuật hùng dũng thời xưa và ý nghĩa đơn thuần của môn bắn cung, để thay thế bằng điều gì mơ hồ, nếu không muốn nói là kỳ quặc?”

Tuy nhiên, cần nên nhớ rằng cái tinh thần đặc thù của môn bắn cung chẳng phải đợi đến thời nay mới liệt vào Đạo Cung Tiễn, mà từ thời xa xưa đã kết chặt không lìa với đạo này. Ngày nay, khi người ta không còn dùng cung tên trong những cuộc cạnh tranh đẫm máu để chứng minh giá trị của nó thì môn bắn cung càng tỏ ra có mãnh lực hơn. Nếu nói rằng vì kỹ thuật bắn cung truyền thống trong chiến đấu đã mất đi tính trọng yếu nên nó đã biến thành một thú tiêu khiển vô hại thì cũng không đúng. “Đại Đạo” của xạ nghệ cho chúng ta thấy điều gì khác hẳn. Căn cứ vào “đạo” này, môn bắn cung vẫn còn là một động tác có tính cách sanh tử mà cung thủ phải chiến đấu với chính mình; và cách thức tranh đua này không phải là sự thay thế tầm thường mà là căn bản của tất cả những cuộc tranh thắng hướng ngoại – chẳng hạn như đọ sức với một địch thủ bằng xương bằng thịt. Trong sự tranh thắng của xạ thủ đối với chính mình, hiện ra cái bản chất bí ẩn của xạ nghệ. Tuy nhiên, khi truyền thụ xạ nghệ này, người ta không đè nén bất cứ điều gì cốt yếu khi từ bỏ những cứu cánh thực dụng mà xưa kia giới võ sĩ đã thực hành.

Vì thế, ngày nay ai theo học nghệ thuật này đều có thể thu lượm những lợi ích không thể phủ nhận, từ sự phát triển lịch sử của nó. Đó chính là nhờ cung thủ không màng tới chuyện hiểu được “Đại Đạo” qua những mục đích thực dụng, dù có thể cung thủ che dấu những mục đích này đối với chính hắn; nếu không có thái độ này thì hắn không thể nào thấu hiểu được đạo. Các bậc đại sư của môn bắn cung ở thời đại nào cũng đều đồng ý: Chỉ những người có cái tâm “thanh khiết” không cần biết đến những mục tiêu thứ yếu mới có thể đạt tới mức thâm áo của xạ nghệ.

Nếu có người từ quan điểm này hỏi các đại sư Nhật Bổn: Làm sao họ hiểu được sự tranh đấu của cung thủ với chính hắn, và họ diễn tả sự tranh đấu này như thế nào? Câu trả lời của họ sẽ là một câu đố khó giải. Đối với họ, trong cuộc tranh đấu này xạ thủ nhắm vào chính mình, lại cũng không phải chính mình bắn trúng chính mình, và do đó hắn vừa là người nhắm bắn vừa là mục tiêu, vừa là người bắn và người bị bắn trúng. Hoặc là, chúng ta hãy dùng câu mà các đại sư thích nói “Cung thủ cần phải trở thành một trung tâm bất động.” Tới lúc đó, cái kỳ tích chí cao vô thượng, xuất hiện: Nghệ thuật thành “vô nghệ,” xạ thành “vô xạ” – một loại xạ không cung không tên; thầy lại trở thành học trò, bậc đại sư thành người bắt đầu học, kết cuộc thành mở đầu, và mở đầu thành viên mãn.

Đối với người Đông phương, những công thức huyền diệu này là chân lý mười phần rõ ràng, tai nghe quen thuộc. Nhưng đối với người Tây phương, thì chúng hết sức mô hồ, khó hiểu. Vì thế, đối với vấn đề này người Tây phương cần nên nghiên cứu sâu hơn.

Các loại nghệ thuật Nhật Bổn đều lấy Phật giáo làm căn nguyên; điểm này từ lâu đối với người Âu Châu đã không còn bí mật nữa. Dù là nghệ thuật bắn cung, vẽ tranh thủy mạc, kịch nghệ, trà đạo, nghệ thuật cắm hoa, hoặc võ sĩ đạo, đều như vậy.

Những môn này đều lấy trạng thái tâm linh làm điều kiện tiên quyết, sau đó theo phương thức cá biệt bồi bổ thêm. Hình thức tối cao của trạng thái tâm linh này là đặc sắc của Phật giáo, cũng quyết định bản chất của giới tăng lữ. Phật giáo hiểu theo nghĩa thông thường, cũng không phải Phật giáo thuộc loại nặng về lý luận mà phần đông người Âu Châu được biết tới.

Những điều tôi nói thuộc về Phật giáo Thiền tông, mà người Nhật gọi giản dị là “Zen” trong đó không có sự suy đoán mà chỉ có những kinh nghiệm trực tiếp để thể nghiệm đến căn cơ sâu xa nhất của cuộc sinh tồn sâu thẳm. Căn cơ này không cách nào lấy phương pháp tư duy để nhận biết, dù đã trải qua những kinh nghiệm minh xác nhất: Người ta biết nó bằng cách không cần biết tới nó… Chính vì những kinh nghiệm trọng yếu này mà Thiền tông đã mở ra lối đi mới, áp dụng phương pháp đắm chìm trong chính bản thân để cho mình cảm nhận được chỗ căn cơ sâu nhất của tâm hồn, của cái Vô Căn Cơ Tánh và Vô Phẩm Chất Tánh không thể gọi tên – và hơn thế nữa, trở thành đồng nhất với cái đó.

Nói như vậy, xạ nghệ là những bài học luyện tập tâm linh nhờ vào đó mà kỹ xảo của môn bắn cung trở thành một nghệ thuật – và nếu mọi điều tiến triển tốt đẹp, nó sẽ đạt tới cảnh giới “vô nghệ chi nghệ.” Xạ nghệ là phương pháp tu tập huyền bí, người thực hành không thể thành tựu được điều gì ở bên ngoài bằng cung tên, mà chỉ có thể thành tựu trong nội tâm, với chính bản thân. Cung tên chỉ là phương tiện cho những gì có thể xảy ra mà không cần tới chúng, chúng chỉ là con đường dẫn tới mục tiêu, chứ chẳng phải là chính mục tiêu, chỉ là những hổ trợ cho bước nhảy vọt tối hậu.

Vì thế, nếu người ta được các Phật tử Thiền tông giảng giải để tăng tiến hiểu biết về Thiền thì thật là tốt đẹp không gì bằng. Sự thật, những tư liệu loại này chẳng thiếu thốn. Trong cuốn “Những Tiểu Luận Về Thiền Tông”,1 Đại Sư D. T. Suzuk từng thuyết minh rằng văn hóa Nhật Bổn và Thiền có liên hệ mật thiết với nhau; nghệ thuật Nhật Bổn, tinh thần võ sĩ đạo, lối sống, đạo đức, mỹ thuật, thậm chí cả đời sống trí thức của người Nhật, đều chịu những ảnh hưởng đặc thù từ Thiền tông; vì vậy người ta không thể hiểu văn hóa Nhật một cách chính xác nếu không biết gì về Thiền tông.

Những tác phẩm rất trọng yếu của Đại Sư Suzuki, và những nghiên cứu của các học giả Nhật Bổn khác, đã gây chú ý rộng rãi đến các giới đối với Thiền. Phát xuất từ Ấn Độ, sau khi trải qua những biến đổi thâm sâu, Thiền tông đạt tới phát triển cao độ ở Trung Quốc, rồi được người Nhật tiếp nạp, và họ đã vun bồi thành một truyền thống cho đến ngày nay. Người ta thường công nhận rằng Thiền tông đã khai mở những con đường nhân sinh bất ngờ mà chúng ta rất cần phải hiểu biết.

Nhưng, tuy các chuyên gia Thiền học đã cố gắng mọi cách, sự thấu hiểu về tinh nghĩa của Thiền vẫn còn quá ít đối với người Tây phương. Tựa hồ như Thiền chống lại sự xâm nhập xa hơn của người Tây phương, sau khi mò mẫm tiến được vài bước thì họ gặp phải những chướng ngại không thể vượt qua. Gói ghém trong bóng tối thâm sâu, Thiền giống như câu đố kỳ dị nhất trong sinh hoạt tinh thần của người Đông phương: Không thể giải nghĩa nhưng có sức hấp dẫn không chống cự nổi.

Người ta có cảm giác nhức nhối vì không thể đạt tới sự thấu hiểu, nguyên do hầu như là vì cung cách diễn đạt mà Thiền đã áp dụng từ xưa tới nay. Chúng ta không thể trông mong Thiền gia cho biết những gì nhiều hơn là hé lộ một cách gián tiếp về những kinh nghiệm đã giải thoát và thay đổi con người họ; hoặc là họ chỉ có thể cố gắng mô tả cái “Chân Lý” bất khả tưởng tượng và bất khả diễn đạt mà họ đang sống. Trên phương diện này, Thiền gần giống như chủ nghĩa thần bí nội suy thuần túy. Trừ phi chúng ta đi vào những kinh nghiệm huyền bí bằng cách tham dự trực tiếp, nếu không thì chúng ta chỉ đứng bên ngoài, với tâm trạng bứt rức bồn chồn vì thấy khó hiểu. Đây là pháp tắc mà mọi chủ nghĩa huyền bí chân chính đều phải tuân thủ, không có những trường hợp ngoại lệ. Tuy rằng Thiền môn có biết bao nhiêu kinh sách được coi là thiêng liêng, nhưng không có điểm nào mâu thuẫn với pháp tắc này. Những kinh sách này có đặc điểm là chúng chỉ tiết lộ những ý nghĩa vô cùng thâm sâu cho những ai đã chứng tỏ rằng họ xứng đáng đối với những kinh nghiệm trọng đại đó; và do đó, từ những kinh sách này họ có thể suy ra được sự xác nhận về những điều mà họ đã liễu ngộ từ trước mà không cần phải nhờ vào chúng. Mặt khác, đối với những người không có kinh nghiệm, những kinh sách này chẳng những có tính cách ngớ ngẩn – người không có kinh nghiệm làm sao có thể đọc được những ý nghĩa nằm giữa hai giòng chữ – mà còn khiến cho họ sa vào tình cảnh bối rối tinh thần một cách vô vọng, dù cho họ có thái độ thật cẩn trọng và vô tư mà kiên trì nghiên cứu những kinh sách này chăng nữa. Giống như mọi giáo nghĩa huyền bí, người ta chỉ có thể hiểu được Thiền khi chính mình là một nhà huyền bí, và do đó không dùng những phương pháp bất chính để đạt tới những gì mà kinh nghiệm huyền bí còn che dấu họ. Người đã được Thiền biến cải – và đã từng vượt qua “ngọn lửa chân lý” – thường sống một cuộc đời biểu lộ sự liễu ngộ của họ, khiến cho người xung quanh khó có thể không nhận ra.

Vì thế, chúng ta bị lôi cuốn về tinh thần, mong tìm thấy con đường dẫn tới cái sức mạnh vô danh có thể tạo nên những mầu nhiệm thì chúng ta có lý do để trông mong bậc Thiền gia mô tả con đường dẫn tới mục tiêu. Một người thuộc môn phái huyền bí hoặc người sơ học Thiền tông, nếu không trải qua một phen lịch luyện sẽ không có cách nào thành tựu được ngay ở buớc đầu tiên. Trước khi cuối cùng soi sáng được chân lý, họ vẫn còn đầy dẫy bao khó khăn cần phải khắc phục, bao tật xấu phải diệt bỏ. Biết bao nhiêu lần họ bị dằn vặt bởi cái cảm giác thê lương khi thấy dường như mình đang cố gắng đạt tới cái bất khả đạt! Tuy nhiên, tới một ngày nào đó, cái bất khả đạt này sẽ trở thành khả đạt, và thậm chí trở thành hiển nhiên. Vậy thì chúng ta có nên hy vọng rằng sự mô tả thận trọng về con đường dài đầy cam go này ít nhất cũng sẽ dẫn chúng ta tới một điểm: Đặt câu hỏi rằng chúng ta có muốn đi trên con đường đó hay không?

Trong kinh sách của Thiền tông hầu như không hề có những mô tả về con đường đó và những trạm nghỉ chân của nó. Điều này một phần là vì Thiền gia không chấp nhận phương pháp dùng sách vở để truyền dạy bất cứ loại đời sống hạnh phúc nào. Qua kinh nghiệm bản thân, Thiền gia biết rằng người tu tập cần phải có minh sư tận tâm hướng dẫn hoặc sự hỗ trợ của một bậc thầy. Một điều quan trọng khác là khi những kinh nghiệm, những biến đổi tâm linh của hành giả, và những điều mà người đó đã khắc phục, vẫn còn là “của ta” thì chúng sẽ cần phải tiếp tục bị khắc phục và biến đổi nhiều lần nữa, cho tới khi nào mọi cái “của ta” đã hoàn toàn bị tận diệt. Chỉ bằng cách đó, Thiền gia mới có thể đạt tới một căn bản cho những kinh nghiệm của họ những kinh nghiệm này là “Chân Lý toàn diện” nâng cao họ lên một đời sống thường nhật của riêng họ. Thiền gia vẫn sống, nhưng cái thực thể sống đó không còn là chính bản thân họ nữa.

Từ quan điểm này, chúng ta có thể hiểu tại sao Thiền gia tránh bàn về chính mình và về sự tiến triển của họ. Không phải họ nghĩ rằng tự nói về mình là thiếu khiêm tốn, mà vì họ cho rằng làm như vậy là phản lại Thiền. Dù nếu họ muốn bàn về Thiền chăng nữa, chuyện này đâu có dễ dàng mà cần phải moi móc tới tâm can. Họ nhớ tấm gương của một vị Tổ Sư: Có người hỏi vị tổ sư này “Thiền là gì?” Tổ Sư không thốt một lời, hoàn toàn không động lòng, làm như không nghe thấy. Bất cứ Thiền gia nào cũng chẳng muốn tường thuật lại những gì mà họ đã liệng bỏ và không đoái hoài tới nữa.

Trong những hoàn cảnh này, tôi trốn tránh trách nhiệm nếu tôi chỉ sử dụng một chuỗi những điều nghịch lý và ẩn náu đằng sau hàng loạt những từ ngữ nghe rất kêu. Vì chủ ý của tôi là làm sáng tỏ về đặc tánh của Thiền như nó đã tạo ảnh hưởng đối với một trong những nghệ thuật mà nó đã để lại dấu ấn sâu đậm. Đây không phải là soi sáng hiểu theo ý nghĩa cơ bản của Thiền, nhưng ít nhất nó cũng cho thấy rằng phải có cái gì sau những bức tường sương mù dày đặc, cái gì đó giống như tia chớp mùa hè báo hiệu cơn giông bão sắp đến từ đằng xa. Khi hiểu như vậy, nghệ thuật bắn cung cũng giống như một trường dự bị của Thiền, vì nó giúp cho người mới học Thiền có một nhãn quan rõ ràng hơn – qua những tác động của chính hai tay họ – về những sự việc mà họ chưa hiểu. Nói một cách khách quan, người ta có thể tiến tới Thiền từ bất cứ một trong những nghệ thuật mà tôi đã nói.

Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng tôi có thể đạt được mục đích của mình hiệu quả nhất bằng cách mô tả toàn bộ quá trình mà một người học nghệ thuật bắn cung phải trải qua. Nói rõ hơn, tôi sẽ cố gắng tóm lược về quá trình huấn luyện kéo dài sáu năm mà tôi đã được thụ huấn từ một trong những đại sư vĩ đại nhất của môn nghệ thuật này trong thời gian tôi ở Nhật Bổn. Vì vậy, những gì tôi viết ra ở đây đều là do kinh nghiệm bản thân. Để độc giả dễ hiểu những điều tôi viết – vì ngay cả cái trường dự bị này cũng có nhiều câu đố khó hiểu – tôi không có cách nào khác hơn là nhớ lại từng chi tiết về những kháng nội tâm mà tôi đã phải khắc phục, về những ức chế mà tôi phải chống chọi, trước khi tôi thành công để có thể thâm nhập vào tinh thần của Đại Đạo. Tôi phải nói nhiều về chính mình chỉ vì tôi không có cách nào khác để đạt được mục tiêu mà tôi đã đề ra. Cũng vì lý do đó, tôi sẽ chỉ nói về những điều chủ yếu, để khiến chúng nổi bật một cách rõ ràng. Tôi cố ý tự chế để không mô tả cái bối cảnh trong khi thụ huấn, không gợi lại những cảnh tượng đã in sâu trong ký ức tôi, và nhất là tránh vẽ ra một bức hình về vị Đại Sư – dù rằng đây là điều rất cám dỗ. Mọi điều phải dành để nói về nghệ thuật bắn cung, mà nhiều khi tôi thấy rằng nói về nó còn khó hơn là học nó; và sự miêu thuật phải được thi hành tới độ chúng ta bắt đầu nhận ra những chân trời xa xăm mà Thiền sống và thở ở đằng sau đó.

———————————————————————————————-

CHƯƠNG 2

TẠI SAO TÔI HỌC THIỀN

Tôi cần phải giải thích tại sao tôi học Thiền – và vì mục đích học Thiền mà tôi đã học nghệ thuật bắn cung. Ngay từ thời còn là một sinh viên tôi đã quan tâm nhiều về huyền-bí-học, tựa hồ như bị thúc đẩy bởi một lực bí ẩn, dù rằng vào thời đó những môn học loại này không thịnh hành. Tuy nhiên, dù cố gắng thế nào, càng ngày tôi càng nhận thức được rằng mình chỉ có thể tiếp cận những tác phẩm mật giáo này từ bên ngoài; và dù rằng tôi biết cách đi vòng quanh cái gọi là hiện tượng huyền bí nguyên thủy, tôi vẫn không thể nhẩy qua cái giới tuyến bao vây sự huyền bí giống như một bức tường cao. Trong bao nhiêu sách vở huyền-bí-học tôi cũng không thể tìm đúng những gì mà tôi muốn tìm; rồi vì thất vọng và nản lòng, dần dần tôi nhận thức rằng chỉ những ai thực sự “vô chấp’ mới có thể hiểu được ý nghĩa của “sự vô chấp”; và chỉ những người trầm mặc, đã hoàn toàn đoạn trừ cái ngã, mới sẵn sàng “trở thành đồng nhất” với “Đấng Chí Tôn siêu việt.” Vì vậy, tôi nhận thức rằng chỉ có một con đường – và không còn con đường nào khác – đưa tới huyền-bí-học là con đường xây đắp bằng kinh nghiệm và đau khổ của bản thân; nếu thiếu tiền đề này thì tất cả những gì nói về nó chỉ là những lời bàn tán trống rỗng. Nhưng làm cách nào để trở thành một nhà huyền bí? Làm cách nào để đạt tới cảnh giới vô chấp thực sự chứ chẳng phải tưởng tượng? Phải chăng ngày nay vẫn còn có con đường đạt tới cảnh giới huyền bí, ngay cả đối với những người bị ngăn cách với các vị Đại Sư bởi cái hố thẳm của thời gian nhiều thế kỷ? Và đối với con người hiện đại sinh trưởng trong những điều kiện hoàn toàn khác biệt? Bất cứ nơi đâu, tôi chẳng hề tìm thấy điều gì có thể trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi của mình, dù rằng tôi đã nghe nói về những chặng đường và những trạm của một con đường hứa hẹn dẫn tới mục tiêu. Để đi trên con đường này, tôi thiếu những giáo huấn chính xác và đúng phương pháp mà người ta có thể dùng để thay thế cho một vị ̣đại sư, ít ra là trong một phần của cuộc hành trình. Nhưng nếu thực sự có những giáo huấn như vậy thì chúng có đủ sức dạy chúng ta hay không? Phải chăng những giáo huấn như vậy chỉ có thể tạo được sự chuẩn bị để tiếp nhận điều gì đó mà ngay cả những phương pháp tốt nhất cũng không thể cung cấp? Phải chăng kinh nghiệm huyền bí là điều mà con người bình thường không thể tự sản sanh ra? Bất luận tôi nhìn vấn đề thế nào, tôi cũng thấy mình đối diện với những cánh cửa khóa kín nhưng tôi vẫn không cách nào tự ngăn cản mình tiếp tục gõ cửa. Khát vọng không ngừng cho đến khi khát vọng mệt mỏi, tôi lại khởi lên khát vọng của tấm lòng khát vọng ấy.

Vì thế, khi có người hỏi tôi – lúc này tôi đã là giảng sư trường đại học – có muốn đi dạy triết học ở trường Đại Học Đông Kinh không, tôi vui sướng đón mừng cái cơ hội có thể giúp tôi nhận thức về nước Nhật và nhân dân Nhật, nơi đó tôi có hy vọng tiếp xúc với Phật giáo, và từ đó tiếp xúc với sự thực hành nội quán về huyền-bí-học. Tôi đã nghe nói ở Nhật Bổn vẫn còn giữ gìn nghiêm mật một truyền thống Thiền, một nghệ thuật giáo huấn đã được khảo nghiệm qua bao thế kỷ, và điều quan trọng nhất là có những vị Thiền sư tinh thông về nghệ thuật chỉ giáo tâm linh.

Chẳng bao lâu sau khi tới Nhật Bổn tôi bắt đầu việc thực hiện sự mong muốn của mình, nhưng tôi liền gặp những lời từ chối khiến tôi lúng túng. Người ta bảo rằng xưa nay chưa từng có người Âu Châu nào nghiêm cẩn quan tâm học Thiền bao giờ; và bởi vì Thiền khước từ mọi dấu vết gì về “giáo huấn” cho nên nó sẽ không thể nào thỏa mãn tôi “một cách lý thuyết.” Tôi phải phí thêm bao tâm huyết và thì giờ mới giãi bày rõ tại sao tôi muốn hiến thân đặc biệt cho Thiền mà không nặng phần lý luận. Nghe qua, họ lại cho tôi biết rằng người Âu Châu muốn thâm nhập vào lãnh vực sinh hoạt tâm linh này là hoàn toàn không có hy vọng – loại sinh hoạt tâm linh này có lẽ là kỳ lạ nhất của người Đông phương – trừ phi người đó khởi sự bằng cách học tập một môn nghệ thuật liên quan với Thiền.

Cái ý tưởng phải trải qua một loại thụ huấn dự bị chẳng khiến tôi sờn lòng chút nào. Tôi cảm thấy sẵn sàng để đi bất cứ đoạn đường dài nào nếu có chút hy vọng được tiến tới gần Thiền hơn chút nữa; và, đối với tôi, một con đường khúc khuỷu phải đi quanh co, dù tốn bao nhiêu công sức, vẫn tốt hơn là chẳng có con đường nào cả. Nhưng tôi nên theo đuổi bộ môn nào trong các loại nghệ thuật mà họ đề ra cho tôi phải học? Vợ tôi, sau khi hơi do dự, liền quyết định học nghệ thuật cắm hoa và hội họa. Còn tôi cảm thấy tựa hồ nghệ thuật bắn cung đối với tôi thích hợp hơn. Tại vì tôi sai lầm – sau này mới phát hiện – cho rằng những kinh nghiệm bắn súng trường và súng lục của tôi sẽ có lợi cho mình.

Tôi khẩn khoản yêu cầu một trong những bạn đồng sự của tôi, ông Sozo Komachiya – một giáo sư môn công pháp đã từng học bắn cung hai mươi năm và được coi là môn sinh tài giỏi nhất của nghệ thuật này tại trường đại học – giúp tôi ghi danh theo học vị thầy trước đây từng dạy ông, vị đại sư lừng danh tên là Kenzo Awa.

Đầu tiên, đại sư không nhận tôi, bảo rằng ông bị lầm một lần trước đây, từng dạy một người ngoại quốc, và cho tới nay vẫn còn cảm thấy hối hận về cái kinh nghiệm đó. Ông không có ý định nhượng bộ lần thứ hai, để tránh cho học viên cái gánh nặng tinh thần đặc thù của môn nghệ thuật này. Tôi thỉnh rằng: “Một vị Đại Sư coi trọng công việc của mình như vậy thì phải là một người có thể nhận tôi làm đệ tử nhỏ nhất.” Ông thấy tôi không phải chỉ muốn học nghệ thuật này như một thú vui mà vì muốn tầm cầu “Đại Đạo” mới tìm học môn này. Cuối cùng ông bằng lòng nhận tôi làm môn đồ và nhận cả vợ tôi. Ở Nhật Bổn, giới thiếu nữ học bắn cung là một cổ tục, vợ và hai con gái của đại sư cũng đều siêng học đạo này.

Thế là bắt đầu một khóa trình huấn luyện đầy cam go. Bạn tôi, ông Komachiya – người đã kiên nhẫn làm thuyết khách và hầu như đứng ra bảo lãnh cho chúng tôi – bây giờ là người thông ngôn của chúng tôi. Đồng thời, thời vận tôi cũng khá, cho nên tôi được mời tham dự những bài học về nghệ thuật cắm hoa và hội họa mà vợ tôi đang theo học, để tôi có dịp không ngừng so sánh các môn nghệ thuật lẫn nhau, hầu đạt được một căn bản kiến thức bao quát hơn về Thiền.

———————————————————————————————-

CHƯƠNG 3

NGHỆ CỦA VÔ NGHỆ

Ngay trong lúc học bài thứ nhất chúng tôi liền biết con đường “Nghệ Vô Nghệ” không phải là dễ đi. Đại sư cho chúng tôi xem trước các loại cung của Nhật Bổn, giải thích rằng chúng có sức đàn hồi đặc biệt là nhờ cấu trúc đặc thù và cuộc liệu làm bằng tre. Nhưng dường như ông cảm thấy điều quan trọng hơn nữa là chúng tôi nên chú ý tới hình thù cao quí của cây cung – dài khoảng 1 mét 90 – hiện ra ngay khi nó được buộc dây, và khi cây cung được kéo xa hơn nữa thì cái hình thù đó càng đáng ngạc nhiên. Đại Sư giải thích rằng khi chúng kéo tới mức tột đỉnh thì nó “bao quát tất cả,” vì thế cần phải học tập phương pháp kéo cung chính xác. Kế đó, ông cầm lên một cây cung tốt nhất và mạnh nhất, rồi trang nghiêm đứng theo nghi thức, búng nhẹ dây cung mấy cái, phát ra âm hưởng thanh túy vang tiếng sắc bén pha lẫn tiếng trầm trầm. Âm thanh này nghe qua mấy lần, vĩnh viễn khó quên, nó kỳ lạ như thế, khiến người nghe kích động như bị nó siết chặt trái tim. Xưa nay người ta nói rằng cung có sức trừ tà, và tôi cho rằng điều tin tưởng này đã mọc rễ trong toàn thể dân tộc Nhật.

Sau khi trải qua màn khai tâm đầy ý nghĩa để tịnh hóa và nhập môn, Đại Sư ra lệnh cho chúng tôi hãy chăm chú theo dõi ông. Rồi ông lấy một cây tên đặt vào đây cung, kéo dây cung ra xa đến nỗi tôi sợ nó không chịu nổi sự khẩn trương của việc “bao quát tất cả” và rơi mất mũi tên. Tư thế này không những trông thật đẹp mà còn thư thái và không phí sức. Tiếp đó ông dạy chúng tôi: “Bây giờ các bạn hãy làm giống như vậy, nhưmg phải nhớ rằng mục đích của xạ nghệ không phải là để tăng cường bắp thịt. Khi kéo dây cung chớ dùng hết sức toàn thân, phải học cách dùng sức ở hai bàn tay, trong khi các bắp thịt cánh tay và vai vẫn thư giãn – giống như thể các bắp thịt này chỉ là kẻ đứng xem bên ngoài. Chỉ khi nào các bạn làm được điểm này mới hoàn tất điều kiện sơ bộ dùng tâm linh kéo cung bắn tên,” Giảng xong, ông nắm hai tay tôi, chậm rãi hướng dẫn chúng qua mỗi giai đoạn của động tác này, mà trong tương lai tôi phải làm theo, với dụng ý để tôi quen với cảm giác này.

Khi lần đầu thử dùng cây cung có sức mạnh trung đẳng để luyện tập, tôi nhận thấy muốn kéo nó tôi phải dùng khá nhiều sức. Bởi vì cung Nhật – không giống loại cung thể thao của Âu Châu – không phải đưa lên ngang vai thôi, không như lúc nâng đến vai có thể đưa sức toàn thân điều thêm trên cung. Cung Nhật một khi cắm tên vào xạ thủ liền cử cao hơn đầu, đồng thời hai cánh tay giơ thẳng. Vì thế, chỉ có thể đưa hai cánh tay sang tả hữu hai bên, khi chia ra càng rộng thì tay càng hướng xuống phía dưới hơn, mãi đến khi tay trái đang cầm cung ngưng ở vị trí cao ngang mắt. Cánh tay trái giơ thẳng ra ngoài, đồng thời tay phải kéo dây cung ngược thẳng về hướng sau, cánh tay phải cong lại đặt điểm kéo ở trên vai phải lúc cây tên dài 90 centimét chỉ hơi lộ một chút xíu mũi ở vành ngoài cung – cái mức trương ra lớn như thế. Xạ thủ phải bảo trì tư thế này chốc lát, cuối cùng mới buông tên. Phương thức kéo cung khác thường này cần có sức mạnh. Không lâu, tay tôi bắt đầu run rẩy, hô hấp càng thấy mệt hơn. Những tuần kế tiếp, tình huống này cũng không thấy cải thiện, kéo cung vẫn là việc khó khăn. Tuy rằng tôi siêng năng luyện tập, cái động tác đó vẫn không chịu trở thành “tâm linh.” Để tự an ủi, đột nhiên tôi nghĩ rằng lối này chắc chắn cần đến bí quyết gì đây, nhưng vì lý do nào đó mà Đại Sư không thổ lộ thế thôi. Tôi có tham vọng muốn tìm ra cái bí mật này.

Đã hạ quyết tâm, tôi tiếp tục luyện tập. Đại Sư chăm chú theo dõi sự cố gắng của tôi, lặng lẽ sửa đổi lại tư thế căng thẳng của tôi, khen ngợi sự nhiệt thành của tôi, trách móc sự phí sức của tôi, ngoài ra tất cả để tôi được tự do. Duy có điều mỗi lần tôi giương cung, ông liền lớn tiếng bảo tôi: “Thư giãn! Thư giãn!” – đây là tiếng ngoại quốc ông mới học được – tuy ông tuyệt nhiên không mất kiên nhẫn mà luôn luôn lịch sự, nhưng tiếng la lớn ấy lần nào cũng đều chạm chỗ đau của tôi. Sau cùng, một hôm tôi mất kiên nhẫn và phải thú nhận với ông rằng tôi không thể nào chiếu theo phương pháp dạy của ông mà kéo cung.

Đại Sư bảo: “Anh làm không được bởi vì phương thức hơi thở của anh không đúng. Sau khi hít vào, mang hơi ép nhẹ xuống làm cho vách bụng căng chặt, rồi để hơi ngưng ở đó chốc lát. Sau đó, chậm rãi thở hơi ra đều đặn. Nghỉ chốc lát, lại hít một hơi nhanh vào, một thở ra một hít vào không ngừng, theo một nhịp điệu mà dần dà sẽ tự ổn cố. Nếu làm đúng động tác này, xạ tiễn càng ngày sẽ càng dễ hơn. Bởi vì từ nguồn hô hấp anh không những phát hiện căn nguyên của tất cả sức mạnh tâm linh, mà hơn thế nữa, nó còn khiến cho cái nguồn sức mạnh này càng phát sinh nhiều hơn và chảy đến tứ chi. Khi anh càng thư giãn bao nhiêu thì sức mạnh đó càng trôi chảy bấy nhiêu. “Để chứng minh lời nói, Đại Sư kéo sợi dây trên cây cung cứng, bảo tôi đứng sau lưng sờ những bắp thịt cánh tay ông. Chúng thật là rất thư giãn, tựa hồ như không phải làm việc gì cả.

Tôi theo phép tu tập phương pháp hô hấp mới, đầu tiên không dùng cung và tên, cho đến khi thấy hơi thở trở thành tự nhiên. Lúc ban đầu, có một chút cảm giác khó chịu nhưng không bao lâu tôi khắc phục được. Đại Sư rất chú trọng hơi thở ra, cố gắng chậm và đều đặn cho tới khi hơi thở ra hết. Để cho dễ kiểm soát khi luyện tập, ông muốn mọi người khi thở ra phải phát tiếng vù vù thật nhỏ. Chỉ khi nào hơi thở thôi phát tiếng ông mới cho phép hít hơi vào. Có một lần, Đại Sư bảo: “Hít hơi vào là kết hợp; khi nín hơi các bạn khiến cho mọi sự được trôi chảy; hơi thở ra là nới lỏng và hoàn tất bằng cách khắc phục mọi giới hạn, đạt đến viên mãn.” Nhưng lúc ấy mọi người đều không hiểu ra ý nghĩa của câu nói đó.

Tiếp đến, Đại Sư bắt đầu giảng mối quan hệ giữa hơi thở và xạ tiễn – đương nhiên việc luyện tập hô hấp ở đây chẳng phải vì lợi ích cho chính nó. Ông chia tiến trình kéo dây cung và bắn tên thành những giai đoạn: Nắm cung, lên tên, nâng cung lên cao, kéo dây và ngưng lại khi cung giương ra rộng nhất, cuối cùng buông tên. Mỗi giai đoạn đều bắt đầu với hơi thở hít vào, kế đó nín hơi ở bụng, sau cùng thở ra.

Kết quả là hô hấp và động tác phối hợp một cách tự nhiên và không những nhấn mạnh vị trí cách biệt và động tác của tay mà còn dựa vào dung lượng thở lớn hay nhỏ của phổi từng người, sự điều khí cùng các cử động đan dệt thành lớp lang rất nhịp nhàng. Tuy chia thành những giai đoạn, toàn bộ quá trình lại giống như một sinh vật hoàn toàn tự tồn, chẳng có chút gì giống như môn thể vận (gymnastics) của Tây phương – trong môn này người ta có thể thêm vào hay bớt đi những động tác nhỏ tùy lúc mà không đến nỗi phá hoại ý nghĩa và đặc tính của nó.

Mỗi lần nghĩ đến những ngày tháng ấy, tôi không khỏi nhớ mãi những khó khăn khi bắt đầu luyện tập thở đúng cách. Mặc dù phương thức tôi hít vào đã đúng về kỹ thuật, nhưng mỗi lần tôi cố gắng giữ cho những bắp thịt cánh tay và vai thư giãn trong khi kéo dây cung, các bắp thịt hai chân tôi thì lại cứng đờ ghê gớm, tựa hồ nếu tôi không đứng tấn cho vững thì sẽ mất mạng; và giống như người khổng lồ Antaeus trong thần thoại Hy Lạp, tôi phải hấp thụ sức lực từ dưới đất. Đại Sư thường không biết làm cách nào khác, ông đành phóng bàn tay nhanh như tia chớp xuống bắp đùi của tôi, ngay chỗ nhạy cảm đặc biệt và ấn bàn tay xuống. Vì muốn biện bạch, có lần tôi nói rằng tôi đang cố gắng giữ cho thân thể thư giãn. Đại Sư trả lời: “Đó chính là khuyết điểm của anh, vì anh cứ cố gắng nghĩ đến nó. Hãy hoàn toàn chú tâm vào hơi thở, giống như anh không có việc gì khác để làm!” Tôi tốn biết bao thời gian mới đạt đến ý muốn của Đại Sư; rốt cuộc rồi cũng thành công. Tôi tập tự quên mình trong hơi thở một cách dễ dàng đến nỗi đôi khi tôi có cảm giác rằng chẳng phải tôi đang thở mà – thật là kỳ lạ – tôi “bị thở.” Có lúc tôi ngẫm nghĩ hàng giờ đồng hồ, không chịu thừa nhận ý niệm táo bạo này, nhưng tôi không hoài nghi rằng sự hô hấp còn có tất cả những diệu dụng mà Đại Sư đã hứa hẹn. Tiếp đến, tôi có thể điều khiển được toàn thân thư giãn hoàn toàn khi kéo căng dây cung ra và bảo trì sức kéo hết mức, cho đến khi buông tên. Lúc đầu, thỉnh thoảng tôi mới làm được như vậy, về sau càng ngày càng thường xuyên hơn – nhưng tôi không thể giải thích vì sao tôi làm được. Sự khác biệt về phẩm chất giữa những lần thành công hiếm hoi và vô số những lần thất bại thật là rõ ràng, cho nên tôi phải thừa nhận rằng cuối cùng tôi đã hiểu ý nghĩa dùng “tâm linh” kéo cung.

Nó như thế này: không phải là một bí quyết kỹ thuật như tôi đã tìm kiếm một cách vô ích, mà lại phải cố tâm điều hòa hơi thở để có thể đạt được những ảnh hưởng mới mẻ và sâu xa. Tôi nói điều đó mà trong lòng còn hoài nghi, vì tôi biết rất rõ sức cám dỗ của một ảnh hưởng mạnh; và khi sa vào cạm bẫy của ảo tưởng người ta thường đánh giá quá cao về sự quan trọng của một kinh nghiệm chỉ vì nó thiếu minh bạch của ngôn ngữ và sự dè dặt tỉnh táo, những kết quả đạt được nhờ cách thở mà tôi đã học được – sau này tôi đã có thể kéo được cả cây cung cứng của Đại Sư nhờ thư giãn bắp thịt – thật là quá rõ rệt, không thể phủ nhận.

Khi bàn luận với ông Komachiya về việc luyện tập, có lần tôi hỏi ông tại sao Đại Sư thản nhiên trong một thời gian dài nhìn tôi uổng công phí sức lấy “tâm linh” kéo cung, tại sao ngay lúc đầu Đại Sư không dạy tôi thở đúng cách? Ông đáp: “Một vị đại sư chắc chắn cũng phải là một vị giáo sư vĩ đại. Đối với người Nhật chúng tôi, hai điều đó đi đôi với nhau. Nếu khi bắt đầu khóa học Đại Sư dạy ngay phương pháp thở cho ông, ngài sẽ không thể nào khiến cho ông nhận ra sự quan trọng có tính cách quyết định của nó. Ông phải trải qua tình cảnh bị đắm tàu – qua những nỗ lực của chính ông – trước khi ông sẵn sàng chụp lấy cái phao cấp cứu mà Đại Sư liệng cho ông. Tin tôi đi, tôi biết qua kinh nghiệm bản thân rằng Đại Sư biết về ông và mỗi học viên của ngài rõ hơn là chúng ta biết về chính mình. Ngài nhìn thấy rõ trong tâm linh của các học viên –đó là sự thật mà nhiều người không muốn thừa nhận.”

 

———————————————————————————————-

CHƯƠNG 4

LẤY TÂM KÉO CUNG

Sau một năm huấn luyện, tôi đã có thể kéo dây cung “bằng tâm linh,” không cần cố gắng dùng sức mạnh – điều này chẳng phải là một thành quả ghê gớm gì. Nhưng tôi rất hài lòng, vì tôi đã bắt đầu hiểu rõ tại sao có môn võ thuật tự vệ gọi là Nhu Đạo. Phương pháp này quật ngã đối thủ bằng cách bất ngờ nhượng bộ – không cần cố gắng chống cự – đòn tấn công mạnh bạo của đối phương, khiến cho sức mạnh của hắn chống lại chính hắn. Từ xưa đến nay Nhu Đạo đã lấy nước làm biểu tượng vì nước luôn luôn nhượng bộ nhưng bất khả khuất phục. Vì vậy Lão Tử nói câu danh ngôn chí lý “Thượng thiện nhược thủy,” bởi vì “Tất cả mọi vật trên đời không có cái gì mềm yếu như nước vậy mà nó có thể thắng được tất cả những vật gì cứng rắn nhất.” Hơn nữa, trong trường các học viên truyền cho nhau câu nói của đại sư: “Người nào tiến bộ rất nhanh lúc ban đầu thì về sau sẽ càng gặp nhiều khó khăn.” Đối với tôi, lúc bắt đầu chẳng dễ dàng chút nào: Nếu thế, phải chăng tôi có quyền cảm thấy tự tin để nghinh đón việc tương lai xảy ra, và những khó khăn mà tôi đã bắt đầu hoài nghi?

Điều kế tiếp phải học là “buông ra” mũi tên. Cho tới bây giờ chúng tôi được phép buông mũi tên tùy ý: nó hầu như chỉ là một hành động ngoại biên trong việc huấn luyện. Và, chẳng ai quan tâm tới điều gì xảy ra cho mũi tên. Miễn rằng mũi tên xuyên vào cuộn rơm bó chặt – dùng làm mục tiêu và đồng thời hứng mũi tên – là xạ thủ thỏa mãn rồi. Bắn trúng được mục tiêu chẳng phải là chuyện khó khăn gì, vì chúng tôi chỉ đứng cách nó khoảng mười bước là nhiều lắm.

Trước đây, tôi chỉ giản dị buông dây cung khi đã kéo tới tột điểm và không còn chịu đựng được sự căng thẳng của cung, khi tôi cảm thấy mình phải buông ra, nếu không thì sẽ khó có thể khép hai tay tôi lại. Sức căng thẳng này chẳng gây đau đớn gì. Ngón tay cái của bao tay bằng da rất cứng, trong đó lót vải rất dầy để ngừa sức ép của dây cung làm khó chịu cho ngón cái, khiến chưa đạt đến sức căng dãn ở điểm cao nhất đã buông ra rồi. Khi kéo cung, ngón tay cái móc chặt dây cung ngay dưới mũi tên , ba ngón trỏ, giữa và vô danh nắm chắc ngón cái, đồng thời cũng giữ chặt đuôi tên. Bắn tên tức là buông ba ngón tay để thả ngón cái ra. Qua sức kéo mãnh liệt của dây cung, ngón tay cái bị bật khỏi vị trí của nó, cây cung căng thẳng, sợi dây rung chuyển và mũi tên bay ra. Cho tới lúc này, mỗi khi tôi bắn tên dây cung giật rất mạnh, khiến toàn thân tôi dấy động, và cũng gây ảnh hưởng tới sự ổn định của cung và tên. Như vậy là mỗi lần bắn tôi không tránh khỏi tự nhủ: Thế nào cũng bị chao đảo.

Khi không còn thấy khuyết điểm trong cung cách thư giãn mà tôi kéo dây cung, một hôm Đại Sư nói: “Cho tới nay tất cả những gì mà anh đã học chỉ là việc chuẩn bị để bắn mũi tên. Bây giờ chúng ta đối diện với một bài học mới và hết sức gian nan để tiến vào một giai đoạn mới của nghệ thuật bắn cung.” Nói xong, đại sư cầm cây cung, kéo dây ra và bắn.

Tới lúc này, khi cố ý nhìn kỹ để tìm hiểu, tôi mới phát hiện tay phải của Đại Sư tuy thình lình mở rộng và giật mạnh về phía sau, nhưng, toàn thân ông không chao động chút nào. Cánh tay mặt ông, trước khi chưa bắn tên vốn đã thành một cái góc nhọn, lúc này mở ra và nhẹ nhàng dang thẳng ra. Cái sức giật không thể nào tránh khỏi đã bị hóa giải.

Nếu không có tiếng kêu “băng” của sợi dây cung rung rung và sức xuyên thấu của mũi tên kia, thì chẳng ai tin cây cung có xạ lực. Ít nhất điển hình qua đại sư, việc bắn tên giản dị và nhẹ nhàng giống như trò chơi của trẻ con.

Chẳng dùng sức mà biểu diễn một công phu cần rất nhiều sức, là một cảnh tượng rất đẹp mà người Đông phương thích thưởng thức và lãnh hội một cách hết sức bén nhạy. Nhưng điều quan trọng hơn đối với tôi – và ở giai đoạn đó tôi không thể nghĩ cách nào khác – là việc bắn trúng mục tiêu dường như tùy thuộc vào động tác buông tên một cách bình vững. Qua môn bắn súng trường tôi biết rằng chỉ một chút xê xích ra khỏi đường nhắm cũng khiến mục tiêu bị sai lạc.

Cho tới bây giờ tất cả những gì mà tôi đã học và đạt được đã trở thành rõ ràng, từ quan điểm sau đây: thư giãn khi kéo cung, thư giãn khi giữ lại ở điểm căng ra xa nhất, thư giãn khi buông mũi tên, thư giãn khi hứng chịu sức dội lại. Phải chăng tất cả những điều này đều nhắm vào mục đích bắn trúng mục tiêu, và là lý do tại sao chúng tôi tốn công sức và kiên nhẫn học bắn cung? Vậy thì tại sao Đại Sư nói như thể giai đoạn mà bây giờ chúng tôi cần học sẽ vượt xa tất cả mọi điều mà chúng tôi đã thực tập và làm quen từ trước tới nay? Bất luận thế nào, tôi vẫn chiếu theo sự giáo huấn của Đại Sư một cách siêng năng chuyên cần, nhưng, tất cả cố gắng của tôi vẫn uổng công. Tôi thường cảm thấy dường như trước đây tôi bắn khá hơn bây giờ, khi tôi cứ tự nhiên buông tên mà không nghĩ gì về hành động đó.

Tôi nhận ra một điều quan trọng là tôi không thể mở bàn tay phải, nhất là những ngón giữ ngón cái, nếu không dùng sức. Hậu quả là bàn tay bị giật mạnh vào lúc buông dây cung, khiến cho mũi tên bị chao đảo. Đại sư không chút chán nản, tiếp tục biểu diễn phương pháp bắn tên chính xác. Tôi cũng không chút nản lòng làm theo giống như ông – mà kết quả duy nhất là càng ngày tôi thấy mình giống như con rết không thể tiến tới vì cứ thắc mắc không biết nó phải đi theo thứ tự của những cái chân như thế nào.

Thất bại của tôi không khiến cho Đại Sư bực mình, trái lại chính tôi cảm thấy bực mình. Phải chăng ông căn cứ qua những kinh nghiệm để biết điều này phải xảy ra? Ông nói: “Đừng suy nghĩ anh phải làm gì? Đừng suy tính làm cách nào để bắn! Mũi tên sẽ chỉ bay đi êm thắm khi nó bất ngờ lìa khỏi xạ thủ. Giống như thể sợi dây cung bỗng nhiên cắt xuyên qua ngón tay cái giữ nó. Anh không được cố tình mở bàn tay phải.”

Tôi trải qua những tuần lễ và những tháng kế tiếp thực hành không có kết quả. Tôi lại lấy cách bắn tên của đại sư làm tiêu chuẩn, chú ý quan sát cách buông dây cung chính xác, nhưng vẫn không một lần thành công.

Nếu đợi thời khắc bắn tên tự nó đến, tôi không chịu nổi sức dang rộng của cung, lúc đó hai tay tôi từ từ khép vào nhau, và tôi không thể bắn được. Nếu tôi cắn răng chịu đựng sức dang ấy cho đến khi hơi thở như trâu, thì tôi không thể không cần những bắp thịt của cánh tay và vai trợ giúp. Lúc bấy giờ tôi đứng bất động – giống như một pho tượng, tôi bắt chước tư thế của Đại Sư – nhưng căng thẳng và không còn thư giãn được nữa.

Có thể là cơ duyên ngẫu nhiên, có thể là do Đại Sư sắp xếp, một hôm chúng tôi gặp nhau nơi uống trà. Tôi nắm lấy cơ hội này để thảo luận và nói rất nhiều điều muốn nói.

Tôi thổ lộ: “Tôi biết rõ rằng khi buông tay không được lay động, nếu không thì phát bắn sẽ hỏng. Nhưng, bất cứ tôi cố gắng sửa sai thế nào, nó cũng vẫn không đúng. Nếu tôi hết sức nắm chặt bàn tay thì khi buông lỏng các ngón tay tôi không thể giữ cho bàn tay khỏi rung động. Mặt khác, nếu tôi cố giữ cho bàn tay thư giãn, thì sợi dây cung đã từ trong tay tôi trượt ra một cách bất ngờ và quá sớm, trước khi tôi kéo cung hết mức. Tôi không thất bại cách này thì thất bại cách khác. Thật tình cảm thấy không thể nào trốn tránh thất bại.”

Đại sư trả lời: “Anh phải giữ sợi dây cung sau khi kéo ra, giống như hài nhi nắm lấy ngón tay mà người ta chìa ra cho nó. Nó nắm chặt đến độ người lớn không khỏi ngạc nhiên về sức mạnh của cái bàn tay tí hon. Và khi nó buông ngón tay anh ra, bàn tay của nó không giật chút nào. Anh biết tại sao không? Bởi vì đứa trẻ không hề nghĩ trong đầu: Bây giờ ta phải buông ngón tay này ra để nắm lấy một vật khác. Nó hoàn toàn không tự giác, không có mục đích gì, khi từ vật này chuyển sang vật khác. Chúng ta bảo nó đang chơi đùa với vật, nếu nói rằng vật đùa với nó, có phải cũng đúng như nhau không?”

Tôi đáp: “Có lẽ tôi hiểu ngụ ý của Thầy, nhưng hoàn cảnh của tôi không phải hoàn toàn khác sao? Sau khi tôi kéo cung ra, đến lúc tôi cảm thấy: Trừ phi bắn tên liền tức khắc chứ tôi không làm sao chịu đựng nổi sức dãn nữa. Rồi điều gì xảy ra? Tôi gần như đứt hơi. Vì thế, dù muốn dù không, tôi phải buông tên, bởi vì tôi không đợi lâu hơn được.”

Đại sư trả lời tôi: “Anh miêu tả những chỗ khó khăn như vậy là rất đúng. Anh biết vì sao anh không chờ đợi được đúng lúc buông tên, và tại sao anh gần như đứt hơi thở trước khi đúng lúc anh buông tên? Thời cơ buông tên đúng lúc của anh không đến là vì anh không chịu buông chính mình ra. Anh không chờ đợi sự thành công; trái lại, anh gồng mình chờ sự thất bại. Nếu cứ như vậy mãi, anh không có cách nào khác hơn là cầu viện tới một điều ngoại tại nào đó sẽ xảy ra, và khi nào anh còn cầu viện tới nó thì bàn tay anh sẽ không mở ra đúng cách – giống như bàn tay đứa hài nhi. Bàn tay anh không buông ra một cách tự nhiên như vỏ của một trái cây chín mùi.”

Tôi phải thừa nhận với Đại Sư rằng lời giải thích này của ông khiến tôi càng thêm khó hiểu hơn. Tôi trả lời: “Nói cho cùng, tôi kéo cung và buông tên là để bắn trúng mục tiêu. Vì vậy, kéo cung chỉ là một phương tiện để đạt đến mục đích, và tôi không thể quên sự liên hệ này. Đứa trẻ nít không biết gì về điều đó; nhưng đối với tôi, hai việc này không thể tách rời nhau.”

Đại sư nói: “Nghệ thuật chân chính không có mục đích! Khi bắn, anh càng cố chấp vì muốn bắn trúng cái bia thì anh càng khó thành công, và cái bia kia sẽ lìa anh xa hơn. Ý chí chấp thủ quá đáng là trở ngại của anh. Anh tưởng rằng điều gì chính anh không làm thì sẽ không xảy ra.”

“Nhưng, Thầy thường bảo tôi rằng, thuật bắn cung không phải là một môn giải trí, không phải là trò chơi vô mục đích, mà chính là một vấn đề sanh tử!”

Đại sư đáp rằng: “Tôi vẫn nói như thế! Các bậc thầy dạy bắn cung đều nói: Một mũi tên, một mạng người! Anh chưa hiểu được câu nói này. Nhưng nếu dùng một hình ảnh khác để diễn tả cùng một kinh nghiệm, có lẽ sẽ giúp ích cho anh. Các xạ sư chúng tôi nói: Với nửa phía trên cây cung xạ thủ xuyên thấu bầu trời, nơi nửa phía dưới cây cung trái đất treo lủng lẳng như thể bị buộc bằng một sợi dây. Khi buông tên, nếu tay giựt mạnh, sợi dây ấy sẽ có nguy cơ bị đứt. Đối với những người có cơ tâm và tính tình thô bạo thì cái đứt rạn này sẽ thành vĩnh viễn, và họ sẽ bị treo giữa trời đất một cách đáng sợ.”

Tôi ưu tư hỏi Đại Sư: “Vậy thì tôi phải làm sao đây?”

“Anh cần phải học tập chờ đợi một cách thích đáng.”

“Học tập như thế nào?”

“Bằng cách buông thả anh ra. Hãy bỏ lại chính anh và tất cả những gì của anh ở đằng sau anh một cách triệt để đến nỗi chẳng còn sót cái gì, ngoại trừ một phần sức kéo vô tâm cơ.”

“Vậy thì tôi phải trở thành vô tâm – một cách cố ý?” Tôi nghe thấy chính mình nói thế.

“Chưa có người học trò nào từng hỏi tôi như vậy, cho nên tôi không biết trả lời ra làm sao.”

“Thưa Thầy, chừng nào chúng tôi bắt đầu luyện tập những bài học mới?”

“Khi thời cơ thích đáng đến.”

 

———————————————————————————————-

CHƯƠNG 5

CHỦ ĐỀ CỦA MÔN BẮN CUNG

Cuộc đàm luận trên đây với Đại Sư – là lần nói chuyện thân mật thứ nhất từ ngày tôi bắt đầu học – khiến tôi cảm thấy thắc mắc cực độ. Rốt cuộc, bây giờ chúng tôi đã đụng chạm tới chủ đề để dẫn tôi tới việc học bắn cung. Phải chăng điều mà Đại Sư bảo là tự buông thả con người mình chính là một giai đoạn trên con đường dẫn tới “không tánh” và “vô chấp”? Phải chăng tôi đã đạt tới điểm mà ảnh hưởng của Thiền đối với nghệ thuật bắn cung bắt đầu tỏ lộ ra?

Sự liên hệ giữa khả năng chờ đợi một cách vô tâm và động tác buông tên đúng lúc – khi sức căng thẳng tự nhiên viên mãn – là điều mà tới bây giờ tôi vẫn chưa nhận ra. Nhưng cần gì phải cố gắng tiên đoán những gì mà chỉ có kinh nghiệm mới có thể dạy mình? Phải chăng đã đến lúc cần phải từ bỏ cái thói quen vô ích này? Đã bao nhiêu lần tôi âm thầm ganh tị với các môn sinh khác của Đại Sư khi họ để ông cầm tay dẫn dắt họ giống như trẻ con. Một hành động tự nhiên và vô trí như vậy thật là tuyệt diệu. Một thái độ như thế không nhất thiết đưa tới sự lãnh đạm và làm chậm bước tiến tâm linh. Trẻ con vẫn có quyền đặt những câu hỏi chứ?

Trong bài học kế tiếp tôi thất vọng khi Đại Sư tiếp tục dạy những động tác trước đây: Giương cung, ngưng lại, buông tên. Nhưng, tất cả sự khích lệ của ông đều là vô dụng. Dù rằng tôi tuân thủ theo giáo huấn của ông, không nhượng bộ với sức dãn, mà phải tranh đấu để vượt qua khỏi nó, tựa hồ như tính chất của cây cung chẳng có thể hạn chế sức dãn của nó; dù tôi cố gắng chờ tới khi sức dãn tự động bắn tên ra – nhưng bất kể tất cả những nỗ lực này, mỗi mũi tên bắn ra đều thất bại; khó hiểu, hỏng bét, đi loạn xạ.

Mãi cho đến khi Đại Sư thấy rõ rằng việc tiếp tục những bài tập này không những vô ích mà còn có thể nguy hiểm, vì tôi bị dồn nén ngày càng nặng bởi vì dự cảm của thất bại, lúc đó ông mới sửa đổi lối đi, bắt đầu với một phương châm mới mẻ.

Ông bảo chúng tôi: “Từ nay khi các người đến học, các người phải chú tâm khi đi tới đây, hãy chỉ tập trung tâm lực vào những gì xảy ra trong sảnh luyện võ. Khi đi qua bất cứ vật gì trên đường đều chớ nên chú ý tới nó, tựa hồ như trên đời này chỉ có một điều quan trọng và có thật – đó là môn bắn cung!”

Trình tự “buông lỏng chính mình” cũng chia thành từng giai đoạn như nhau để cẩn thận luyện qua. Trên phương diện này, đại sư cũng chỉ đưa ra những tập luyện này, môn sinh chỉ cần hiểu rõ, hoặc có lúc chỉ cần đoán trúng, điều mà Đại Sư đòi hỏi là đủ rồi. Vì thế không cần phải quan niệm hóa những khác biệt được diễn tả theo truyền thống bằng những hình ảnh. Ai biết được rằng những hình ảnh này – phát sanh qua hàng chục thế kỷ thực hành – lại chẳng ghi sâu đậm hơn tất cả kiến thức đắn đo tỉ mỉ của chúng ta?

Tôi đã đi được bước thứ nhất trên con đường này rồi. Nó đã dẫn tới sự buông thả thân thể – nếu không thì chẳng thể nào giương cung đúng cách. Nếu muốn buông tên đúng cách, việc thả lỏng cơ thể còn cần phải nối tiếp bằng việc thả lỏng tinh thần và tâm linh; để khiến cho tâm trí không những bén nhạy mà còn tự do nữa: nó bén nhạy nhờ nó được tự do, và tự do nhờ sự bén nhạy nguyên thủy này khác biệt về bản chất đối với những gì mà chúng ta thường hiểu về sự bén nhạy tinh thần. Vì thế, giữa hai trạng thái của sự thư giãn thân thể và tự do tâm linh có một trình độ khác biệt mà xạ thủ không thể khắc phục bằng cách chỉ cần điều hòa hơi thở, mà phải bằng cách rũ bỏ tất cả mọi thứ chấp trước, bằng cách trở thành hoàn toàn vô ngã: Để khiến cho linh hồn – ẩn sâu trong chính nó – đứng hiên ngang trong sự phong phú nguyên thủy vô danh của nó.

Sự đòi hỏi phải bế tỏa các giác quan chẳng phải được đáp ứng bằng cách cố gắng tránh né thế giới cảm quan mà lại sẵn sàng nhượng bộ mà không chống cự lại. Để đạt được “hành động vô hành động” này một cách tự nhiên từ bản năng, tâm linh cần có một chỗ bám víu từ bên trong, và nó thực hiện bằng cách tập trung vào hơi thở. Hành giả chú tâm vào hơi thở một cách có ý thức và chuyên tâm trì chí đến độ hầu như trở thành mô phạm. Hít vào và thở ra đều phải hết sức cẩn thận luyện tập. Hành giả không cần phải chờ đợi lâu mới thấy kết quả. Càng tập trung vào hơi thở bao nhiêu, những kích thích ngoại giới càng mờ nhạt và tan biến vào hậu trường. Chúng biến đi giống như tiếng gầm thét bị trấn áp mà ban đầu người ta chỉ nghe bằng một nửa lỗ tai, rồi cuối cùng người ta thấy rằng nó chẳng quấy nhiễu gì hơn tiếng gầm của hải triều từ đằng xa – một khi đã trở thành quen thuộc thì người ta không còn để ý tới nó nữa. Ngày tháng lâu dần, đối với những kích thích lớn hơn cũng thừa sức chống trả, đồng thời cũng khiến người ta càng nhanh và càng dễ bỏ hẳn chấp trước.

Chỉ cần chú ý rằng thân thể phải thư giãn khi đứng, ngồi, hoặc nằm; lúc ấy nếu tập trung tâm lực vào hơi thở thì không lâu những lớp tịch mịch bất khả xuyên thấu; chỉ còn nhận biết và cảm thấy mình đang thở. Muốn tự tách mình ra khỏi cảm giác và tri thức này, người ta không cần tới một quyết tâm nào, bởi vì hơi thở sẽ tự nó đi chậm lại; trở thành mỗi lúc một tiết kiệm hơi thở hơn trước, và cuối cùng biến thành một đơn điệu mờ nhạt và hoàn toàn thoát ra khỏi sự chú ý của hành giả. Đáng tiếc rằng cái trạng thái tuyệt diệu chìm đắm trong bản thân đó không kéo dài. Nó dễ bị xáo trộn từ bên trong.

Bất chợt, những tâm trạng, những cảm giác, dục vọng, lo lắng, và cả những tư tưởng, từ đâu bỗng dưng hiện ra một cách hỗn độn vô nghĩa; khi những thứ đó càng vô nghĩa và càng không liên quan gì tới điều mà hành giả chú tâm thì chúng càng đeo đẳng dai hơn. Tựa hồ như chúng muốn trả thù ý thức, bởi vì – qua sự tập trung – ý thức đã tiếp xúc với những lãnh vực mà lúc thường nó không đến được. Phương pháp hữu hiệu duy nhất khiến cho sự xáo trộn này ngưng lại và tiếp tục thở, một cách lặng lẽ và bất quan tâm, để nhập vào những liên hệ thân thiện với bất cứ cái gì hiện ra, để trở thành quen thuộc với nó, để nhìn nó một cách lãnh đạm và cuối cùng chán nhìn nó. Bằng cách đó hành giả dần dần tiến vào một cảnh giới giống như trạng thái mơ màng trước khi đi vào giấc ngủ.

Nhưng, đi vào giấc ngủ như vậy là điều nguy hiểm cần phải tránh. Để tránh, hành giả sử dụng một bước nhẩy khác thường để tập trung, giống như cái giật mình mà một người đã thức suốt đêm phải tự gây ra cho mình, khi hắn thấy rằng mạng sống của mình tùy thuộc vào các giác quan ở trong tình trạng cảnh giác; chỉ cần bước nhẩy này đã thành công một lần là sau đó chắc chắn hành giả sẽ có thể lập lại nó. Nhờ cái bước nhảy này, tâm linh tự nhiên sanh ra một loại rung động nội tại – một sức rung động có thể được nâng cao thành loại cảm giác mà người ta chỉ trải qua trong những giấc mộng hy hữu, cực kỳ nhẹ nhõm, và lòng tin tưởng nồng nhiệt rằng mình có thể thâu tóm sinh lực từ bất cứ phương hướng nào, để gia tăng hoặc để giảm bớt những căng thẳng tới mục độ thoải mái. Trong cảnh giới này không có cái gì đích xác cần suy nghĩ, chuẩn bị, cố gắng, mong cầu hoặc kỳ vọng, cũng chẳng có một mục tiêu và phương hướng đặc thù nào; thế nhưng, nó biết chính nó có năng lực làm những việc có thể làm hoặc việc không thể làm. Sức mạnh của nó là kiên định như thế. Trên căn bản, cảnh giới này là vô tâm cơ và vô ngã mà Đại Sư gọi đó là cảnh giới “tâm linh” chân chính. Sự thật, nó tràn đầy minh giác của tâm linh, vì thế nó còn được gọi là “sự hiện diện chân chính của tâm.” Có nghĩa là tâm linh hiện diện khắp nơi, bởi vì nó không trụ vào bất cứ một nơi nào đó. Hơn nữa, nó có thể tiếp tục hiện diện, bởi vì ngay cả khi liên quan tới vật này vật nọ, nó không bị mất tính cách linh động nguyên thủy của nó. Giống như nước đầy trong ao, lúc nào cũng có thể chảy ra, nó có sức lực vô tận bởi vì nó tự do; và nó mở ngỏ đối với mọi sự vật vì nó là hư không. Cảnh giới này vốn là cảnh giới nguyên thủy. Biểu tượng của nó là một cái vòng tròn trống trơn, nhưng đối với người nào đứng trong đó thì nó chẳng phải là trống trơn ý nghĩa.

Từ trạng thái đầy ắp của cái tâm hiện diện khắp nơi này, không bị quấy nhiễu bởi động lực ngoại tại nào, người nghệ sĩ đã thoát ly tất cả mọi chấp thủ phải thực hành nghệ thuật của mình.

Nhưng nếu hắn tự thích nghi một cách vô ngã vào tiến trình sáng tạo, thì việc thực hành nghệ thuật phải đi trên con đường trơn tru. Bởi vì, nếu đắm chìm trong tự ngã, hắn thấy mình đối diện với một tình cảnh mà hắn không thể nhảy vào qua bản năng, trước hết hắn phải khiến nó hiện ra trong ý thức. Lúc đó hắn sẽ đi lại vào tất cả những mối liên quan mà trước đây hắn đã xa lìa; hắn sẽ giống như người được đánh thức dậy rồi suy xét chương trình hành động trong ngày, mà không giống như Người Giác Ngộ, sinh, sống và hoạt động trong trạng thái nguyên thủy ban sơ. Hắn sẽ không bao giờ tìm thấy tựa hồ những phần tử riêng biệt của tiến trình sáng tạo được đặt vào tay hắn bởi một quyền lực siêu phàm; hắn sẽ không bao giờ cảm thấy sự rung động choáng váng của một biến động được truyền thông cho hắn – chính hắn cũng chỉ là một sức rung động – và không bao giờ cảm thấy mọi điều mà hắn đã được hoàn thành từ trước khi hắn nhận ra.

Vì thế, sự vô chấp và tự giải thoát, việc hướng nội và tăng cường sức sống cho đến khi đạt tới sự hiện diện trọn vẹn của tâm, là những thứ mà hành giả không thể để mặc cho chúng tự nhiên xảy ra hoặc chờ tới lúc thuận tiện; nhất là không được phó mặc cho tiến trình sáng tạo – là thứ đòi hỏi tới tất cả năng lực của người nghệ sĩ – tự nó đến, với hy vọng rằng sự tập trung của tâm sẽ tự nhiên xảy ra. Trước khi làm và sáng tạo mọi sự việc, trước khi bắt đầu hiến thân và tự điều chỉnh mình cho thích ứng với công tác của hắn, người nghệ sĩ khơi dậy sự hiện diện của tâm và luôn luôn luyện tập điều này để duy trì tâm. Tới khi người nghệ sĩ thành công trong việc nắm bắt cái tâm một cách dễ dàng như thể nó nằm ở đầu ngón tay, chứ không phải chỉ thỉnh thoảng mới xảy ra, thì từ đó công phu Định này – giống như hơi thở – sẽ liên kết chặt chẽ với thuật bắn cung.

Để dễ nhập vào tiến trình giương cung và buông tên, cung thủ quì một đầu gối và bắt đầu nhập định, đứng lên, bước về phía tấm bia theo nghi thức nghiêm trang, kính cẩn dâng cung tên lên trước mặt giống như dâng hiến phẩm vật cúng tế, rồi lắp mũi tên, nâng cung lên, giương cung và chờ đợi với thái độ tâm linh vô cùng tỉnh thức. Sau khi mũi tên và sức căng được thả ra nhanh như tia chớp, cung thủ giữ nguyên tư thế đó, đồng thời chậm rãi thở ra hết hơi rồi hít hơi vào. Chỉ tới lúc đó cung thủ mới được buông thõng tay xuống, cúi chào cái bia và – nếu hắn đã bắn hết tên – lặng lẽ lui về phía sau.

Như vậy là thuật bắn cung trở thành một nghi lễ để thị hiện “Đại Đạo.”

Đến giai đoạn này, cho dù môn sinh chưa lãnh hội được ý nghĩa đích thực của việc xạ tiễn, ít ra họ cũng hiểu được tại sao thuật bắn cung không thể là một môn thể thao đua tài hoặc một môn luyện tập thân thể. Họ hiểu tại sao phần kỹ thuật có thể học được kia cần phải luyện đến lúc hoàn toàn thuần thục. Nếu mọi điều tùy thuộc vào nỗ lực của cung thủ để trở thành vô cơ tâm và vong ngã thì sự thực hiện ngoại tại phải xảy ra một cách tự động, không cần tới sự kiểm soát hoặc phản tỉnh của trí năng.

Chính sự tinh thông lão luyện về hình thức này là phương pháp giáo huấn mà người Nhật noi theo. Thực hành, luyện tập, và ôn lại nhiều lần, càng ngày càng tinh tiến hơn, đó chính là những đặc điểm của những chặng đường dài dẫn tới đạo. Ít ra, đây là sự thực trong tất cả những môn nghệ thuật truyền thống của Nhật Bổn. Biểu diễn, làm gương, trực giác, bắt chước – đây chính là mối liên hệ cơ bản thầy và trò. Tuy nhiên, mấy mươi năm gần đây, khi Nhật Bổn đưa vào những đề tài giáo dục mới thì những phương pháp giáo dục của Âu Châu cũng đã có chỗ đứng và không thể phủ nhận rằng người Nhật đã hiểu biết và ứng dụng. Vậy thì làm cách nào mà các môn nghệ thuật Nhật Bổn vẫn còn giữ được những tinh hoa mà không bị ảnh hưởng bởi những cải cách giáo dục này, dù rằng người Nhật vốn có khuynh hướng hâm mộ những điều mới lạ?

Vấn đề này rất khó trả lời. Nhưng hãy thử xem, dù nếu chỉ là câu trả lời khái quát, nó cũng có thể giúp độc giả hiểu rõ thêm về đường lối giáo huấn và ý nghĩa của sự bắt chước.

Mỗi học sinh Nhật Bổn đều sẵn có ba đặc chất: Giáo dục tốt, yêu nồng nhiệt môn nghệ thuật đã chọn, và tuyệt đối tôn kính thầy. Từ xưa nay, quan hệ thầy trò của người Nhật đã thuộc vào những nghĩa vụ cơ bản của đời sống. Vì thế, ở cương vị người thầy, cần phải gánh vác trách nhiệm trọng đại vượt ra khỏi những bổn phận nghề nghiệp.

Đầu tiên, người ta không đòi hỏi học sinh phải làm gì ngoài việc bắt chước một cách chuyên cần tỉ mỉ những gì mà thầy biểu diễn. Thầy thường tránh lối giải thích thuyết giáo trường thiên đại luận, chỉ theo lệ ban ra những mệnh lệnh, chẳng dự tính học sinh sẽ hỏi vấn đề. Thầy nhìn những nỗ lực sai lầm của học sinh một cách bàng quan và thụ động, thậm chí chẳng cần học sinh có tinh thần độc lập hoặc sáng kiến, mà chỉ kiên nhẫn chờ đợi chúng phát triển và thành thạo. Cả hai phía đều có thời gian: Thầy không hối thúc bắt ép, và học sinh cũng không hao phí tinh lực quá đáng.

Không có ý muốn đánh thức khiếu nghệ thuật của học sinh quá sớm, thầy cho rằng công tác trước nhất của ông là làm cho học sinh thành một người thợ khéo léo và thuộc làu phần kỹ xảo. Học sinh theo ý hướng đó của thầy một cách chăm chỉ không biết mệt. Tựa hồ như mình chẳng có những khát vọng nào cao hơn, người học trò cúi mình dưới gánh nặng thụ huấn với một tinh thần cúc cung tận tụy; để rồi nhiều năm sau hắn nhận ra rằng những hình thức mà hắn đã thành thạo không còn áp chế hắn mà là giải thoát hắn. Người học trò ngày càng nhiều khả năng theo đuổi bất cứ cảm hứng nào mà không cần tới nỗ lực kỹ thuật, và cũng để làm cho cảm hứng đến với hắn qua sự quan sát tỉ mỉ. Cái bàn tay hướng dẫn cây cọ đã nắm bắt được và thi hành điều gì đó nổi lên trong tâm ngay khi tâm bắt đầu thành hình cái đó, và sau cùng người học trò không biết tâm hay bàn tay hắn chịu trách nhiệm đối với bức họa này.

Nhưng, để tiến xa tới mức đó, để khiến cho kỹ năng hưởng ứng theo tâm linh, cần phải mang tất cả lực lượng thể chất tinh thần tập trung lại, như trong nghệ thuật bắn cung – mà những thí dụ sau đây cho thấy rằng chúng không thể thiếu trong bất cứ tình huống nào.

Một họa sĩ ngồi trước mặt học sinh của mình. Ông tỉ mỉ ngắm nghía bút họa của mình, thông thả chuẩn bị dùng nó. Ông chú tâm mài mực, trải dài tấm giấy vẽ trên chiếc chiếu trước mặt, rồi sau khi nhập định, trong tư thế ngồi như pho tượng bất khả xâm phạm, ông nhanh tay chẳng chút do dự vẽ ngay, vẽ ra bức họa hoàn mỹ không thể sửa lại cũng không cần phải sửa lại, làm mẫu cho học sinh cả lớp.

Vị thầy dạy cắm hoa bắt đầu bài học bằng cách cẩn thận mở sợi dây bằng vỏ cây buộc các nhánh hoa, cuốn cẩn thận nó trở lại, đặt sang một bên. Sau đó thầy xem thật kỹ từng nhánh hoa, lựa ra những nhánh tốt nhất trong ấy sau khi tiếp tục quan sát; rồi ông cẩn thận uốn những nhánh hoa theo hình thái thích đáng của chúng, và cuối cùng cắm vào trong bình hoa xinh xắn. Hình ảnh bình hoa sau khi hoàn thành trông giống như ông thầy đã đoán biết điều mà Thiên Nhiên đã thoáng trông thấy trong những giấc mộng âm u.

Trong hai trường hợp nêu trên – tôi phải tự giới hạn mình trong hai thí dụ này mà thảo luận – các Đại Sư hành động như thế không có người nào ở bên cạnh. Thậm chí họ không thiếc liếc nhìn học sinh, và chẳng nói một lời. Khi hành động tác chuẩn bị một cách trầm tư và trang trọng, họ tạo hình thái của tác phẩm. Đối với học sinh và đối với chính họ, toàn bộ động tác từ bắt đầu cho đến hoàn thành chỉ là một công tác hoàn hảo. Sự thật là trọn vẹn hành động biểu lộ một mãnh lực tới độ nó ảnh hưởng tới người quan sát giống như họ đang thưởng thức một bức họa vậy.

Nhưng tại sao ông thầy không giao những động tác chuẩn bị này – tuy là những việc không thể tránh – cho một môn sinh có kinh nghiệm làm? Ông tự mài mực, lại còn cẩn thận cởi sợi dây bằng vỏ cây hoặc cắt đứt và vứt bỏ nó đi. Phải chăng ông làm thế là để tăng tiến sức tưởng tượng hay là sức nắn tạo của ông?

Điều thúc đẩy ông mỗi lần bắt đầu bài học đều phải tập lại một lần những thủ tục này, lại còn kiên quyết chấp nhất muốn các học sinh phải bắt chước, không một chút thay đổi nào? Ông khăng khăng cố chấp tuân theo truyền thống, bởi vì ông dựa theo kinh nghiệm để biết rằng khi làm những công tác chuẩn bị này tinh thần của ông cũng đồng thời tiến vào tình huống thích hợp để sáng tạo. Cung cách trầm tư khi tạo những tác phẩm đó giúp ông đạt được sự bình thản và thư giãn cần thiết trong việc phát huy tất cả những năng lực của mình, những thứ đó không thể thiếu để làm đúng cách. Khi đang đắm chìm một cách vô mục đích trong động tác, bất chợt ông phải đối diện với khoảnh khắc khi tác phẩm – lượn lờ trước mắt ông trong những đường nét lý tưởng – tự thực hiện, tựa hồ như do chính nó tạo nên nó. Cũng giống như những bước đi và thế đứng trong môn bắn cung, công tác dự bị của các môn nghệ thuật này, tuy hình thức khác biệt, nhưng có ý nghĩa như nhau. Nhưng, cũng có mấy loại nghệ thuật không thể áp dụng phương thức này, thí dụ như các vũ công hành lễ tôn giáo và diễn viên kịch nghệ, trước khi lên sân khấu, họ cần phải luyện tập công phu chuyên tâm và vong ngã.

Giống như môn bắn cung, không ai có thể chối cãi rằng những môn nghệ thuật này đều là những nghi thức. Chúng rõ ràng hơn cả lời giảng mà vị thầy có thể diễn tả, những môn nghệ thuật này bảo các môn sinh rằng người nghệ sĩ chỉ có thể đạt tới cảnh giới tinh thần thích ứng khi nào sự chuẩn bị và sức sáng tạo, kỹ thuật và nghệ thuật, vật chất và tâm linh, kế hoạch và đối tượng, hòa hợp với nhau như dòng sông không đứt đoạn. Ở đây môn sinh tìm thấy một chủ đề mới để bắt chước. Bây giờ hắn phải vận dụng việc kiểm soát những cách thực định tâm và vong ngã. Sự bắt chước – bây giờ không còn áp dụng cho những nội dung khách quan mà bất cứ ai có chút thiện chí cũng có thể sao chép – trở thành linh động hơn, lanh lẹ hơn, và có tính cách tâm linh hơn. Môn sinh thấy rằng mình đã gần kề những phát huy mới, nhưng đồng thời cũng nhận ra rằng việc thực hiện những phát huy này chẳng mảy may tùy thuộc vào thiện chí của hắn.

Giả thử rằng tài năng của hắn có thể vượt qua áp lực ngày càng nặng nề, vẫn còn một thứ nguy hiểm không khó tránh khỏi trên con đường dẫn tới thành công. Không phải là thứ nguy hiểm của sự tự mãn vô bổ – vì người Đông phương không có khuynh hướng tự tôn tự đại – mà là thứ nguy hiểm của sự mắc kẹt trong thành quả của mình, cái thành quả được xác nhận bởi sự thành công của hắn và được khuếch đại bởi tiếng tăm của hắn. Nói cách khác, đây là sự nguy hiểm của cách cư xử như thể sự hiện hữu nghệ thuật là một hình thức của đời sống tự nó làm nhân chứng cho chính giá trị của nó.

Vị thầy đã sớm dự kiến loại nguy hiểm này. Với sự thận trọng và khôn khéo của một đạo sư, ông tìm cách giúp môn sinh kịp thời tránh được nguy hiểm đó và không còn chấp ngã nữa. Để thực hiện điều đó, ông vạch ra – một cách thản nhiên tựa hồ nó chẳng đáng nói tới – rằng tất cả những hành động đúng chỉ có thể thực hiện được trong một trạng thái thực sự vô ngã chấp, trong đó người hành động không còn là “chính mình” nữa. Chỉ còn tâm linh hiện diện, loại ý thức không biểu lộ một dấu vết nào về cái ngã, và nhờ đó nó trở thành vô giới hạn qua mọi chiều rộng và chiều sâu, với “mắt có thể nghe và tai có thể nhìn.”

Vị thầy làm như vậy để môn sinh chính mình đi theo lịch trình tâm lộ. Nhưng môn sinh, với khả năng hấp thụ gia tăng, để cho thầy trưng ra điều gì đó mà hắn thường nghe nói tới nhưng chỉ đến bây giờ mới bắt đầu trở thành hiện thực, theo những kinh nghiệm của chính hắn. Dù ông thầy gọi điều đó là gì cũng chẳng đáng kể, mà cũng không chắc ông muốn đặt tên cho nó. Môn sinh hiểu rõ ông ngay cả khi ông giữ im lặng.

Điều quan trọng là một biến động nội tâm bắt đầu được khai mở. Vị thầy mật thiết theo dõi biến động này, nhưng không muốn gây ảnh hưởng tới hướng đi của nó bằng những giáo huấn thêm nữa, vì những giáo huấn này có thể làm nhiễu loạn lộ trình của nó, ông dùng phương pháp bí mật nhất, thâm áo nhất mà ông đã biết, để trợ giúp môn sinh: Phương pháp này giới Phật giáo gọi là truyền tâm pháp trực tiếp. “Giống như là dùng ngọn đèn sáp đang cháy để thắp sáng những ngọn đèn sáp khác,” vị thầy truyền tinh thần nghệ thuật chính xác từ tâm của ông sang tâm của môn sinh, để thắp sáng nó. Nếu môn sinh được hưởng sự truyền thụ như vậy, hắn sẽ ghi nhớ rằng điều quan trọng hơn tất cả những gì thực hiện được ở bên ngoài – dù chúng hấp dẫn đến đâu – là công trình thực hiện được trong nội tâm mà hắn phải đạt tới nếu hắn muốn trở thành mộ nghệ sĩ xứng đáng.

Loại tu dưỡng nội tâm này bao gồm việc biến cải con người hắn, và cái ngã mà hắn thường cảm thấy trong con người mình, thành vật liệu nguyên sơ để huấn luyện và uốn nắn thành một bậc sư. Ở tâm trình này, hai con người nghệ sĩ và con người thường tục trong hắn gặp nhau trong một cảnh giới cao hơn. Vì sự điêu luyện của một bậc thầy chỉ chứng tỏ được giá trị của nó, như là một hình thức sống, khi nó ở trong Chân Lý vô biên và trở thành nghệ thuật nguyên thủy, nhờ được nuôi dưỡng bởi chân lý đó. Khi trở thành bậc thầy hắn không còn “đi tìm” mà chỉ ‘thấy.” Về phương diện một nghệ sĩ hắn là người ghi chép; về phương diện con người hắn là nghệ sĩ mà Đức Phật nhìn thấu tâm can hắn, thấy tất cả những gì hắn làm là không làm, thấy hắn sáng tác và chờ đợi, thấy hắn cảm nhận và không cảm nhận. Con người, nghệ thuật, tác phẩm, cả ba hợp nhất thành một. Nghệ thuật của tác phẩm nội tâm không giống như tác phẩm biểu hiện bên ngoài, nó không lìa con người, tác giả. Tác phẩm này chẳng phải là “làm ra’ mà là “sống,” phát xuất từ những nơi sâu thẳm mà con người đời nay không biết được.

Con đường dẫn đến trình độ của bậc thầy phải leo dốc rất cao. Thông thường chẳng có điều gì thúc đẩy môn sinh tiến tới, ngoại trừ niềm tin của hắn đối với vị thầy – lúc này hắn bắt đầu nhìn thấy tuyệt kỹ của thầy mình. Thầy là tấm gương sống của tác phẩm nội tâm, và chỉ cần sự hiện diện của ông cũng đủ để tạo niềm tin và khích lệ môn sinh.

Vị thầy không bận tâm về chuyện môn sinh sẽ tiến xa tới đâu trong tương lai. Sau khi đã chỉ cho học trò con đường chính xác để đi, ông thầy phải để cho hắn tiếp tục đi một mình. Ông chỉ có thể làm thêm một điều giúp cho môn sinh chịu đựng sự cô đơn của hắn: Ông tách rời hắn ra khỏi chính ông bằng cách khích lệ và khuyên nhủ hắn hãy vượt xa hơn ông, và hãy “leo lên trên vai thầy.”

Bất cứ con đường của môn sinh dẫn hắn đi tới đâu, dù hắn sẽ không còn gặp lại thầy nữa, nhưng quyết không bao giờ quên thầy. Ơn sâu của thầy cao cả không kém gì lòng tôn kính tuyệt đối khi hắn mới nhập học, kiên cường không khác gì niềm tin của người nghệ sĩ; nay hắn thay thế chỗ của thầy, sẵn lòng đáp ứng đối với bất cứ hy sinh nào. Cho tới gần đây, có vô số sự lệ chứng minh rằng loại ân sâu này vượt tiêu chuẩn trong nhưng tập tục của nhân loại.

 

———————————————————————————————-

CHƯƠNG 6

ĐẠI ĐẠO CỦA MÔN BẮN CUNG

Càng ngày tôi thấy mình càng dễ dàng nhập vào nghi thức “Đại Đạo” của môn bắn cung, thi hành mà không cần cố gắng; nói một cách chính xác hơn, tôi cảm thấy mình được “dìu” đi qua, giống như trong một giấc mộng. Như vậy là những dự ngôn của Đại Sư đã được chứng thực. Tuy mhiên, tôi không thể tránh cho sự chú tâm khỏi bị sút giảm đúng vào lúc phải bắn mũi tên. Sự chờ đợi ở điểm cao nhất của sức căng không những mỏi mệt đến nỗi tay tôi phải buông lỏng bớt mà còn cực khổ đến nỗi tôi cứ bị lôi ra khỏi sự định tâm và hướng sự chú tâm của tôi vào việc buông mũi tên. Đại Sư la lên: “Không được nghĩ gì về cú bắn! Như thế là phải thất bại.” Tôi trả lời: “Tôi không có cách nào, sức căng của cung quá mạnh khiến tôi đau lắm”.

Đại Sư giải thích: “Anh cảm thấy đau bởi vì anh không thực sự buông thả chính mình. Điều này rất đơn giản. Anh có thể theo gương chiếc lá tre tầm thường để thấy điều gì phải xảy ra. Khi tuyết rơi, chiếc lá càng lúc càng gục xuống thấp hơn, do sức nặng của tuyết. Hốt nhiên, tuyết trượt xuống đất, trong khi chiếc lá chẳng động đậy. Sau khi kéo đầy cánh cung anh hãy duy trì sức căng ở cao điểm cho đến khi mũi tên từ tay trượt ra. Sự thật là như thế này: Khi sức căng của cung lên tới mức độ định, mũi tên phải rơi ra, nó phải lìa khỏi tay xạ thủ giống như tuyết trượt từ chiếc lá tre, trước khi xạ thủ kịp nghĩ tới hành động của mình.”

Bất kể mọi điều mà tôi có thể làm hoặc không làm, tôi vẫn không thể nào chờ tới lúc mũi tên “rơi ra”. Giống như trước đây, tôi không có cách nào khác hơn là phải cố ý bắn tên ra. Sự thất bại dai dẳng này càng khiến tôi thêm buồn hơn nữa, bởi vì tôi đã trải qua ba năm thụ huấn. Tôi phải thú nhận rằng tôi đã dành nhiều thời giờ để tự hỏi mình có đáng để uống phí thời gian như thế này hay không – sự uổng phí thời gian này dường như thể không liên hệ tới bất cứ điều gì mà tôi đã học và đã kinh nghiệm cho đến lúc này. Tôi nghĩ tới lời mỉa mai của một đồng hương nói rằng ở Nhật Bổn có nhiều môn quan trọng để học, ngoài cái môn nghệ thuật hạ tiện này. Anh ấy hỏi tôi sau khi học được môn công phu này thì tôi định dùng nó để làm gì? Lúc đó tôi chẳng bận tâm về câu hỏi này, nhưng bây giờ nghĩ lại, tôi cảm thấy lời nói của anh ta không phải hoàn toàn phi lý.

Đại Sư chắc hẳn cảm thấy ý nghĩ trong tâm trí tôi. Sau này ông Komachiya thuật với tôi rằng Đại Sư từng đọc thử một quyển khái luận về triết học Tây phương bằng tiếng Nhật để mong có thể dùng loại học vấn của chính tôi mà khai sáng cho tôi. Nhưng sau cùng ông gập cuốn sách lại với nét mặt bực bội và bảo rằng bây giờ ông đã rõ: Một người chuyên tâm vào loại triết lý nói trong cuốn sách thì đương nhiên phải thấy rằng nghệ thuật bắn cung thật là khó học.

Vợ chồng tôi đi nghỉ hè ở vùng bờ biển, trong cảnh cô tịch, phong cảnh đẹp thanh khiết như trong mộng. Trong hành lý của chúng tôi, vật trọng yếu nhất là cung tên. Ngày này qua ngày khác tôi tập trung tâm lực để bắn tên. Việc này đã trở thành một định kiến trong đầu tôi, khiến cho tôi càng ngày càng quên lời cảnh giác của Đại Sư dạy rằng chúng tôi không nên luyện tập điều gì khác hơn là từ bỏ chấp ngã. Tôi suy xét tất cả những gì có thể là nguyên nhân gây ra thất bại và đi đến kết luận rằng lỗi lầm không thể do điều mà Đại Sư đã nghi ngờ: Theo Đại sư thì nguyên nhân là vì tôi vẫn còn cơ tâm và chưa thể vong ngã; nhưng theo tôi nghĩ thì nguyên nhân là bởi những ngón trên bàn tay phải của tôi bám quá chặt vào ngón tay cái. Thời gian chờ đợi buông tên càng lâu, tôi càng bám ngón tay chặt hơn mà không suy nghĩ gì cả. Tôi tự nhủ rằng tôi cần phải nhắm vào điểm này để sửa sai. Không lâu, tôi tìm được câu trả lời đơn giản mà hiển nhiên dễ thấy cho vấn đề này. Giá như sau khi giương cung, tôi cẩn thận giảm áp lực của các ngón dài lên ngón cái, thì sẽ tới lúc ngón cái – không còn bị giữ chặt – bật ra khỏi vị trí tựa hồ như một cách tự nhiên: Theo cách này, dây cung có thể buông ra nhanh như chớp và mũi tên cũng hiển nhiên giống như “tuyết từ lá tre trượt xuống.” Tôi cảm thấy phát hiện này rất đáng kể, nhất là so nó với kỹ thuật bắn súng trường có chỗ rất giống nhau. Vì khi bóp cò súng trường ngón tay trỏ chậm rãi cong lại và dần giảm bớt áp lực cho tới khi khắc phục sức đối kháng cuối cùng của của cò súng.

Rất nhanh, tôi tin con đường mình đi là đúng. Hầu hết mỗi một mũi tên được bắn ra một cách êm thắm và bất ngờ, theo ý nghĩ của tôi. Đương nhiên tôi cũng không bỏ qua cái mặt trái của thắng lợi này: Sự cử động chính xác của bàn tay phải đòi hỏi tôi phải hoàn toàn chú ý. Nhưng tôi tự trấn an với kỳ vọng rằng lối giải quyết kỹ thuật này sẽ dần dần trở thành một thói quen tới độ nó sẽ không còn đòi hỏi tôi phải chú tâm tới nữa; và tôi cũng hy vọng đến một ngày nào đó nhờ kỹ thuật này tôi sẽ có thể bắn mũi tên một cách vong ngã và vô thức, khi sức căng của cung lên tới tột điểm, và trong trường hợp đó kỹ xảo cũng tự nó biến thành sức của tâm linh. Điều tin tưởng này của tôi cùng lúc càng kiên cố, tôi bác bỏ sự chống đối nổi dậy trong thâm tâm mình, không đếm xỉa tới những lời khuyên trái ý của vợ tôi, cảm thấy tự mãn rằng mình đã đạt được một bước tiến quan trọng.

Sau kỳ nghỉ hè, khi trở lại lớp học mũi tên đầu tiên tôi bắn ra thành công sáng chói, theo tôi nghĩ. Hành động buông dây cung êm thắm và tự nhiên. Đại Sư nhìn tôi một lúc, như thể ông không tin ở cặp mắt mình, rồi ông ngập ngừng nói: “Xin hãy bắn thêm lần nữa!” Mũi tên thứ hai tôi bắn ra dường như còn tốt hơn cả mũi tên thứ nhất. Đại Sư không nói năng gì, bước tới lấy cây cung từ trong tay tôi, rồi ông ngồi lên một tấm nệm, xoay lưng về phía tôi. Tôi hiểu ý nghĩa của cử chỉ đó và đành rút lui.

Ngày hôm sau, ông Komachiya báo cho tôi biết rằng Đại Sư từ chối tiếp tục huấn luyện tôi vì tôi đã dối gạt ông. Nhận xét như vậy của Đại Sư về hành vi của tôi khiến tôi hoảng hốt không thể tả. Tôi giải thích với ông Komachiya rằng tôi nghĩ ra phương pháp bắn tên này là vì muốn tránh cả đời dậm chân tại chỗ không tiến lên được. Sau khi ông Komachiya thuyết trình giùm tôi với Đại Sư, cuối cùng ông chuẩn bị nhượng bộ, nhưng với điều kiện là tôi phải tôn trọng lời hứa, vĩnh viễn không vi phạm tinh thần của “Đại Đạo” nữa, ông mới tiếp tục huấn luyện cho tôi.

Nếu sự hổ thẹn trầm trọng không chữa nổi tôi thì cung cách của Đại Sư chắc chắn phải chữa được. Ông không nhắc tới một lời nào về chuyện đã qua, chỉ thản nhiên phát biểu: “Anh thấy điều gì xảy ra khi anh không thể chờ đợi một cách vô tâm tới lúc cây cung căng tột đỉnh. Thậm chí anh không thể học tập điều đó mà không tiếp tục tự hỏi: Ta có thể làm được điều này không? Hãy kiên nhẫn chờ, rồi sẽ thấy điều gì đến – và nó đến như thế nào.”

Tôi nói với Đại Sư rằng tôi đến đây bốn năm, và thời gian lưu lại Nhật chỉ có hạn.

Ông bảo tôi: “Con đường đi đến mục đích không thể đo lường được! Tuần lễ à, tháng, năm à, đâu có quan trọng gì?”

Tôi hỏi: “Nhưng nếu nửa đường mà phải bỏ thì sao?”

“Một khi anh trở thành thực sự vô ngã, anh có thể ngừng bất cứ lúc nào. Hãy tiếp tục luyện tập điều đó.”

Thế là chúng tôi lại khởi sự từ đầu, tựa hồ mọi điều mà tôi đã học cho tới lúc này trở thành vô dụng. Nhưng khả năng chờ đợi ở tột điểm của sức căng vẫn chẳng thành công gì hơn trước, tựa hồ tôi bị sa lầy.

Một hôm, tôi hỏi Đại Sư: “Nếu tôi không buông mũi tên thì mũi tên làm sao bắn ra được?”

Đại Sư trả lời: “Tự nó bắn ra.”

“Tôi đã nghe Thầy nói như vậy vài lần rồi. Vậy để tôi đặt câu hỏi theo cách khác: Làm sao tôi có thể chờ một cách vong ngã để buông tên nếu ‘tôi’ không có mặt tại đó?”

“Nó sẽ chờ đợi tại điểm sức căng cao nhất.”

“Nhưng ‘Nó’ là ai hoặc là gì?’

“Ngày nào anh hiểu cái sự lý đó, anh sẽ không cần đến tôi nữa. Nếu tôi cố gắng đưa ra cho anh thấy đầu sợi chỉ trong cuộn chỉ rồi, thay vì để cho anh tự thể nghiệm, thì tôi sẽ là ông thầy tồi tệ nhất và đáng bị khai trừ! Vì vậy, chúng ta không nên đàm luận về nó nữa. Hãy tiếp tục luyện tập đi!”

Mấy tuần qua, một chút tiến bộ cũng không. Nhưng đồng thời tôi nhận ra rằng điều đó không khiến tôi bực mình tí nào. Phải chăng tôi đã chán tất cả những chuyện này?

Tôi có thể học được môn nghệ thuật này hay không? Tôi thể nghiệm được điều mà Đại Sư gọi là “Nó” hay không? Tôi có thể tìm thấy con đường dẫn tới Thiền hay không? Tất cả những điều này đột nhiên biến thành không đáng kể và xa vời đến nỗi tôi chẳng còn bận tâm gì nữa.

Đã mấy lần tôi quyết tâm thổ lộ cảm nghĩ này nói với Đại Sư, nhưng khi đứng trước mặt ông tôi cảm thấy mất can đảm; tôi tin rằng mình sẽ chỉ được nghe câu trả lời đơn giản: “Đừng hỏi! Luyện tập đi!” Vì thế tôi không hỏi nữa, và có lẽ tôi đã ngừng luyện tập nếu Đại Sư không nắm chặt tôi trong bàn tay ông một cách không thương xót. Tôi sống qua ngày, tận lực chu toàn công việc nghề nghiệp của mình, và cuối cùng không còn than vãn về chuyện tất cả những nỗ lực học bắn cung trong mấy năm qua đã trở thành vô nghĩa.

Rồi, một hôm, sau khi tôi bắn mũi tên ra, Đại Sư cúi gập lưng xuống để chào và tạm ngưng bài học. “Vừa rồi ‘Nó’ bắn đó!” Đại Sư nói lớn, trong khi tôi sững sờ nhìn ông. Đến khi tôi hiểu ý ông, tôi sung sướng bật tiếng la lên.

Đại Sư nghiêm nghị bảo tôi; “Những gì mà tôi nói chẳng phải là lời khen ngợi, chỉ là câu nói thẳng bình thường, không nên khiến anh cảm động như thế. Cũng chẳng phải tôi đã cúi đầu chào chính anh đâu, bởi vì cú bắn đó đối với bản thân anh hoàn toàn vô quan hệ. Lần này khi đạt đến sức căng cao điểm nhất, anh hoàn toàn vong ngã, hoàn toàn không có cơ tâm nào cả. Vì thế, mũi tên ấy rơi ra từ anh giống như một trái cây chín muồi rụng xuống. Bây giờ hãy tiếp tục luyện tập như hoàn toàn không có điều gì xảy ra cả.”

Chỉ sau khi trải qua thời gian tương đối dài, tôi mới thỉnh thoảng bắn đúng cách, và mỗi lần như vậy Đại Sư lại gập mình cúi chào để xác nhận. Làm cách nào mà các mũi tên tự bay ra khi tôi chẳng làm gì cả, tại sao bàn tay phải nắm chặt của tôi bỗng nhiên mở vung mạnh ra sau, lúc ấy tôi không giải thích nổi, và cho đến bây giờ cũng vẫn không thể giải thích. Sự thật là nó đã xảy ra, và chỉ có điều này là quan trọng. Nhưng ít nhất tôi đã đạt tới điểm có thể tự mình phân biệt những phát bắn đúng cách và những phát bắn sai. Sự khác nhau về phẩm chất lớn đến độ xạ thủ nhận ra ngay, sau khi đã trải qua kinh nghiệm.

Đối với người quan sát, nhìn từ bên ngoài, phát bắn đúng cách được nhận ra khi thấy như có sức vô hình nâng đỡ bàn tay phải khi nó vung mạnh về phía sau, giúp cho toàn thân xạ thủ không bị chấn động.

Còn nữa, sau khi bắn không đúng phép, hơi thở đang nín sẽ bật ra, và khó có thể nhanh chóng hít vào phổi hơi thở kế tiếp. Trái lại, sau khi bắn đúng phép, hơi thở ra không phí sức chút nào, thở hết ra rồi, lúc hít hơi vào và cũng rất ung dung hòa hoãn, tim đập đều đặn và yên tịnh; và vì sự chú tâm của xạ thủ không bị quấy nhiễu, nên họ có thể lập tức bắn mũi tên kế tiếp. Về phương diện nội tâm, bắn đúng phép có thể khiến cho xạ thủ cảm thấy như vừa khởi đầu một ngày mới. Hắn cảm thấy mình ở trong tâm cảnh có thể làm đúng mọi chuyện. Trạng thái này thật là thú vị. Nhưng, Đại Sư chỉ khẽ mỉm cười và nói rằng người có tâm cảnh này thường thản nhiên như thể họ không có nó. Chỉ có cái tâm bình thản liên tục mới có thể dung nạp loại tâm cảnh này để nó dám xuất hiện trở lại trong lòng họ.

Một hôm, Đại Sư loan báo rằng chúng tôi sắp học thêm những luyện tập mới. Tôi nói với ông: “Dạ, ít ra chúng tôi đã vượt qua giai đoạn tồi tệ nhất.” Đại Sư dẫn một câu ngạn ngữ đáp lại: “Kẻ nào phải đi bộ một trăm dặm, hắn phải đi hết chín mươi dặm mới có thể tính là đi được một nửa đường. Luyện tập mới của chúng ta là hướng vào tấm bia mà bắn.”

Trước kia, bia và đồ cản tên là một bó rơm đặt trên cái kệ bằng gỗ, chỉ cách xạ thủ bằng hai cây tên nối đuôi với nhau. Còn tấm bia bây giờ cách xa khoảng 60 bộ (18 mét), đặt trên một ụ cát cao phía trước ba bức tường, được che bằng mái ngói uốn cong rất đẹp, giống như hành lang mà cung thủ đứng bắn. Hai hành lang này dùng vách ván cao nối lại để ngăn cách với cảnh vật bên ngoài – khoảng không gian bên trong là nơi xảy ra những điều kỳ quái như tôi đã thuật.

Đại Sư biểu diễn cho chúng tôi xem cách bắn bia: Hai mũi tên đều cắm vào trung tâm của bia. Rồi ông căn dặn chúng tôi cử hành nghi thức giống như trước, chớ để tấm bia hù sợ, phải chờ đợi ở tột điểm của sức căng cho tới khi tên tự nhiên rời khỏi tay bay đi. Những mũi tên tre mảnh mai của tôi bay đúng phương hướng, nhưng không trúng cả ụ cát chứ đừng nói gì tới tấm bia. Chúng đều cắm xuống đất trước mặt cây bia.

Đại Sư nhận xét: “Tên của anh không đủ lực lượng, bởi vì tâm lực của anh không đủ, cho nên bắn không xa. Anh phải hành động tựa hồ như mục tiêu nằm ở nơi vô tận. Các cung thủ bậc thầy đều có kinh nghiệm rằng một cung thủ tài giỏi có thể dùng một cây cung mạnh bậc trung để bắn xa hơn một cung thủ khác dùng cây cung mạnh nhất mà thiếu tâm lực. Điều này không tùy thuộc vào cây cung mà tùy thuộc vào tâm của xạ thủ, vào sức sống và sự tỉnh thức của anh khi bắn. Để phát tiết tất cả sức mạnh của sự tỉnh thức tâm linh này anh phải cử hành nghi thức theo cách khác: phải giống như một nghệ nhân đang múa một vũ khúc. Nếu anh theo đó mà làm thì tất cả động tác của anh đều phát xuất từ “trung tâm” – từ nguồn gốc của hơi thở chính xác. Thay vì làm những động tác của nghi thức giống như là anh đang sáng tạo vũ khúc do cảm hứng đương thời, để khiến cho vũ khúc và vũ nhân hợp nhất thành một. Khi cử hành nghi thức giống như một điệu múa tôn giáo thì sự tỉnh thức tâm linh sẽ phát huy trọn vẹn sức lực của nó.”

Tôi không biết mình đã tiến xa tới đâu trong cách “múa” nghi thức để phát động nó từ trung tâm. Tên của tôi đã có thể bắn được xa nhưng vẫn chưa bắn trúng tấm bia. Điều này thúc đẩy tôi hỏi Đại Sư tại sao ông chưa bao giờ giảng dạy cho chúng tôi cách nhắm bắn mục tiêu. Tôi cho rằng phải có sự liên hệ nào đó giữa tấm bia và đầu mũi tên, và do đó phải có một phương pháp cố hữu để nhắm bắn trúng đích.

Đại sư trả lời: “Đương nhiên là có, và tự anh có thể tìm được cách nhắm đúng. Nhưng, dù anh bắn lần nào cũng trúng đích chăng nữa, chẳng qua anh chỉ là một xạ thủ thích khoe khoang đặc kỹ mà thôi. Đối với một xạ thủ chuyên nghiệp chỉ thích đếm những phát bắn trúng đích của hắn, tấm bia chỉ là một tờ giấy khốn khổ để cho hắn bắn nát mà thôi. ‘Đại Đạo’ coi chuyện đó không khác gì trò quỉ thuật. ‘Đại Đạo’ không biết gì về cái tấm bia cắm ở một khoảng cách cố định từ xạ thủ. ‘Đại Đạo’ không chỉ biết có mục đích – là cái không thể nhắm vào bằng kỹ thuật – và nếu ‘Đại Đạo’ cần đặt tên cho nó thì phải gọi mục đích này là Phật.” Sau khi thốt những lời này – ông nói ra như thể đây là những điều hiển nhiên – Đại Sư bảo chúng tôi hãy quan sát cặp mắt ông thật kỹ trong khi ông bắn. Giống như khi cử hành nghi thức, cặp mắt ông hầu như hoàn toàn khép lại, và chúng tôi thấy ông chẳng có vẻ gì là nhắm bắn.

Chúng tôi theo lời ông thực hành cách bắn mà không cần nhắm. Lúc đầu, tôi hoàn toàn lãnh đạm không cần biết mũi tên bay tới đâu. Cho dù đôi khi trúng bia, tôi cũng không cảm thấy phấn chấn, vì tôi thấy rằng đó chỉ là những lần may mắn. Nhưng về sau, lối buông tên bừa bãi làm cho tôi không chịu được. Bệnh âu sầu cũ của tôi lại tái phát. Đại Sư giả vờ như không chú ý đến sự bất ổn của tôi, mãi đến một hôm tôi thưa với ông tôi đã hết kiên nhẫn nổi.

Đại Sư an ủi tôi: “Việc gì mà phải âu sầu! Hãy gạt bỏ cái ý nghĩ bắn trúng mục tiêu ra khỏi tâm trí anh! Anh có thể trở thành một Đại sư mà không cần phải bắn trúng phát nào. Bắn trúng bia chỉ là bằng chứng ngoại tại, xác nhận anh đã đến mức cao nhất của vô cơ tâm, chứng minh anh vô ngã, đã phế bỏ ngã, hoặc bất cứ anh gọi cảnh giới ấy là gì. Có nhiều đẳng cấp của sự lão luyện, và chỉ khi nào anh đã đạt tới đẳng cấp cuối cùng thì mới có thể biết chắc rằng anh không trật mục đích.”

Tôi trả lời: “Đó là điều tôi không thể nào hấp thụ vào đầu óc… Tôi có thể hiểu ý Thầy cần phải bắn trúng cái mục tiêu đích thực trong nội tâm. Nhưng làm sao bắn trúng được cái mục tiêu ngoại tại – tờ giấy hình tròn – mà xạ thủ không cần phải nhắm khi bắn, và những phát bắn trúng chỉ là những xác nhận ngoại tại của những biến chuyển trong nội tâm – tôi không thể nào hiểu nổi sự tương quan này.”

Đại Sư nghĩ một lát rồi nói: “Nếu anh tưởng tượng rằng thậm chí một sự hiểu biết sơ sài về những tương quan bí ẩn này cũng có ích cho anh thì đó chỉ là ảo tưởng. Đây kà những điều mà lý trí không thể hiểu được. Đừng quên rằng trong Thiên Nhiên có những tương quan không thể thiếu được, nhưng chúng xác thực đến nỗi chúng ta đã trở thành quá quen thuộc, tựa hồ như chúng không thể xảy ra cách nào khác. Tôi nêu cho anh thấy một thí dụ mà tôi thường thắc mắc không hiểu nổi. Con nhện nhảy múa để đan dệt cái lưới mà không biết rằng sẽ có những con ruồi sa vào lưới. Con ruồi, nhảy múa một cách vô tư trong tia nắng, bị vướng vào lưới nhện mà chẳng biết điều gì sắp xảy ra. Nhưng qua cả con nhện lẫn con ruồi, ‘Nó’ múa, và nội tại và ngoại tại hợp nhất với nhau trong vũ khúc này. Vì thế, cung thủ bắn trúng bia mà không cần nhắm – tôi không thể nói gì thêm nữa.”

Tôi suy nghĩ nhiều về sự so sánh này – tuy rằng tôi vô phương nghĩ ra một kết luận vừa ý – nhưng có điều gì đó trong tôi vẫn từ chối sự thoa dịu và không để cho tôi tiếp tục luyện tập một cách vô ưu. Qua được mấy tuần, trong lòng tôi bắt đầu hình thành một sự chống đối rõ ràng hơn. Vì thế tôi lại hỏi Đại Sư: “Ít nhất có thể giải thích như thế này: Sau nhiều năm luyện tập Thầy nâng cung tên lên với lòng tin tưởng của một người mộng du; vì vậy, tuy không nhắm một cách có ý thức khi giương cung, Thầy phải bắn trúng tấm bia – không thể bắn trật được?”

Đã quá quen với những câu hỏi lạt lẽo của tôi, Đại Sư lắc đầu. Sau một lúc yên lặng ngắn ngủi, ông nói: “Lời của anh có lẽ cũng không phải không hữu lý. Tôi đứng đối diện tấm bia ở vị thế ắt phải trông thấy nó, cho dù tôi không cố ý nhìn về hướng đó. Mặt khác, tôi cũng biết rằng sự trông thấy đó chưa đủ, nó không thể quyết định gì cả, nó cũng không thể giải thích gì cả. Bởi vì tôi thấy tấm bia tựa hồ như tôi không thấy nó.”

Tôi buột miệng thốt: “Vậy thì nếu Thầy bịt mắt lại cũng có thể bắn trúng nó.”

Đại Sư quay nhìn tôi với tia mắt khiến tôi sợ rằng mình đã xúc phạm ông. Rồi ông nói: “Tối nay hãy đến gặp tôi.”

Tối hôm đó tôi ngồi trên tấm nệm trước mặt Thầy. Ông trao tôi một tách trà, không thốt một lời. Cứ như thế, chúng tôi ngồi đối diện khá lâu. Trong phòng yên tịnh không tiếng động, chỉ nghe tiếng nước sôi từ chiếc ấm trên lò lửa. Sau cùng Đại Sư đứng lên và ra dấu bảo tôi đi theo. Trong phòng tập bắn thắp đèn sáng trưng. Đại Sư bảo tôi mang cây đèn sáp nhỏ dài như cây kim đan cắm trong cát trước cây bia, nhưng đừng bật đèn trong khu vực dựng bia. Trời tối đến nỗi tôi không trông thấy hình dạng của cái bục cắm bia. Nếu không có ngọn lửa nhỏ xíu của cây nến ở đó thì có lẽ tôi cũng có thể đoán được vị trí của tấm bia, tuy rằng tôi không thể xác định được vị trí chính xác của nó. Đại Sư “múa’ xong nghi thức. Mũi tên thứ nhất từ xạ lang đèn sáng chói mắt bay sang hướng trời tối mù. Qua tiếng động tôi biết rằng ông đã bắn trúng tấm bia. Tiếp đến mũi tên thứ hai cũng bắn trúng luôn. Khi tôi đến chỗ cắm bia mở đèn, tôi rất nỗi kinh ngạc: Mũi tên thứ nhất trúng giữa hồng tâm không xê xích tí nào, còn mũi tên thứ hai sau khi xạ thấu đứt đuôi tên của mũi thứ nhất, còn xuyên qua thâm mũi tên thứ hai, cắm bên cạnh nó. Tôi không dám phân biệt nhổ hai mũi tên này, khiêng trọn cả tên và tấm bia trở về. Đại Sư nghiêm nghị thẩm xét qua, cuối cùng ông bảo: “Chắc hẳn anh nghĩ rằng mũi tên thứ nhất chẳng phải là kỳ công, vì sau nhiều năm luyện tập tôi tôi đã qúa quen thuộc với tấm bia, nên dù ban đêm tối miṭ cũng có thể biết là bia ở đâu. Có lẽ đúng đấy, và tôi không muốn giả vờ là không phải như vậy. Thế nhưng mũi tên thứ hai bắn trúng mũi tên thứ nhất thì anh suy xét như thế nào? Dù sao, tôi biết rằng không phải cái ‘Tôi’ có công bắn trúng. Chính ‘Nó’ bắn đấy, và cũng chính ‘Nó’ bắn trúng đấy. Chúng ta hãy cúi lạy mục tiêu giống như cúi lạy Đức Phật!”

Hai mũi tên của đại sư hiển nhiên cũng bắn trúng tôi: Chỉ một buổi tối tôi đã biến đổi. Tôi không còn bận tâm lo nghĩ về những mũi tên của mình, không thắc mắc điều gì xảy ra cho chúng. Đại Sư càng làm vững mạnh thêm thái độ này của tôi khi ông chẳng hề nhìn vào tấm bia mà chỉ cần nhìn xạ thủ, tựa hồ như đó là cách thích hợp nhất để ông biết đến kết quả của mũi tên bắn ra. Khi tôi hỏi ông có phải như vậy không, ông thản nhiên thừa nhận đích thực là thế, và tôi có thể thấy rõ rằng sự phán đoán chính xác của ông trên phương diện này không kém gì sự chính xác của những mũi tên ông bắn ra. Như vậy là ông lấy công phu định tâm thâm hậu để truyền cái tinh thần nghệ thuật của ông cho môn sinh. Tôi không ngại xác nhận từ kinh nghiệm bản thân – mà tôi từng hoài nghi trong một thời gian dài – rằng cái gọi là “truyền tâm trực tiếp” không phải chỉ là cách nói bóng bẩy mà là một sự thực hiển nhiên. Lúc ấy Đại Sư còn dùng một phương thức truyền tâm khác để trợ giúp chúng tôi. Ông gọi loại phương thức này là “tức khắc truyền tâm.” Nếu tôi liên tiếp nhiều lần bắn không tốt, Đại Sư liền dùng cung của tôi để tự mình bắn vài lần. Sự cải tiến của cây cung thật đáng kinh ngạc: Tựa hồ như cây cung kia đã cải biến, nó cam lòng tình nguyện để tôi kéo cung ra, dường như càng hiểu tôi. Điều này chẳng phải chỉ xảy ra cho riêng tôi. Ngay cả những môn sinh lớn tuổi nhất và nhiều kinh nghiệm nhất, những người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, coi điều này như là một sự thật đã được công nhận từ lâu, và họ ngạc nhiên khi thấy tôi nêu ra những câu hỏi như một người còn bán tín bán nghi.

Tương tự như vậy, các bậc sư kiếm thuật đều tin rằng mỗi thanh kiếm đều mang dấu ấn tâm linh của chuyên gia đúc kiếm; những người này làm việc rất tận tụy và thận trọng, cho nên khi đúc kiếm họ phải mặc lễ phục. Các kiếm thuật gia này có kinh nghiệm phong phú, tài nghệ điêu luyện, cho nên nhận ra những phản ứng của một thanh kiếm trong tay họ.

Một hôm, mũi tên của tôi vừa buông ra, Đại Sư la lên: “Nó đó! Hãy hướng về tấm bia cúi lạy đi!” Sau đó, khi tôi liếc mắt về hướng tấm bia – đây là điều không nên làm, nhưng tôi không cầm lòng nổi – tôi trông thấy mũi tên kia chỉ cọ vào cạnh tấm bia mà thôi.

Đại Sư khẳng định nói: “Mũi tên ấy bắn trúng rồi. Bắt đầu khá rồi đó. Nhưng hôm nay như vậy là đã đủ, nếu không mũi tên sau anh sẽ dụng tâm nhiều hơn và làm hỏng sự khởi đầu tốt đẹp.”

Đôi khi có vài mũi tên hầu như liên tiếp bắn trúng bia, đương nhiên còn có bao nhiêu mũi bắn trật. Nhưng nếu trên nét mặt tôi lộ ra một chút thần sắc đắc ý thì Đại Sư nhìn tôi với nét mặt nghiêm nghị và bảo: “Anh đang nghĩ gì đó? Anh đã biết rằng không nên ưu phiền khi bắn sai. Bây giờ anh phải luyện tâm để không vui mừng khi bắn đúng. Anh đừng để cho mình bị ràng buộc vào những ảnh hưởng của sung sướng và đau đớn, hãy luyện tâm để vượt lên trên những thứ đó và trở thành bình thản, hãy vui như là chẳng phải chính anh mà là một người nào khác đã bắn giỏi. Điều này anh cũng cần phải luyện tập không ngừng – anh không thể biết nó quan trọng tới mức nào.”

Suốt mấy tuần nay, mấy tháng nay, tôi đã trải qua một thời kỳ giáo dục gian khổ nhất trong đời tôi, và tuy rằng kỷ luật huấn luyện không phải luôn luôn dễ tiếp nhận đối với tôi, nhưng tôi dần dần thấy được rằng mình chịu ơn việc huấn luyện này rất nhiều. Nó đã tiêu hủy hết những dấu vết của sự chấp ngã và những thăng trầm trong tâm tánh tôi.

Một hôm, sau khi tôi bắn ra mũi tên đặc biệt tốt, Đại Sư hỏi tôi: “Nay anh có hiểu khi tôi nói ‘Nó bắn,’ ‘Nó bắn trúng’ rồi không?”

Tôi trả lời: “Tôi e rằng tôi chẳng hiểu thêm gì hơn. Ngay cả những điều đơn giản nhất cũng khiến tôi khó hiểu. Có phải ‘Tôi’ giương cung, hay là cây cung giương tôi tới trạng thái căng thẳng tột độ? Có phải ‘Tôi’ bắn trúng mục tiêu, hay là mục tiêu bắn trúng tôi? Cái “Nó” này có tính cách tâm linh khi chúng ta nhìn bằng cặp mắt thịt, và có tính cách xác thịt khi chúng ta nhìn bằng cặp mắt tâm linh – hay là cả hai đều đúng, hay là cả hai đều không đúng? Cung, tên, mục tiêu, cái ngã, tất cả đều hòa tan vào nhau, cho nên tôi không thể tách riêng chúng ra được nữa. Và thậm chí sự tách rời cũng không còn cần thiết nữa. Vì ngay khi tôi cầm cây cung để bắn, mọi đều trở thành rõ ràng, hiển nhiên, và đơn giản một cách nực cười…”

Đại Sư ngắt lời tôi: “Bây giờ, cuối cùng dây cung đã cắt xuyên qua anh rồi đó.”

 

———————————————————————————————-

CHƯƠNG 7

TỐT NGHIỆP KHẢO THÍ

Hơn năm năm đã trôi qua, Đại Sư đề nghị rằng chúng tôi hãy trải qua một cuộc khảo thí. Ông giải thích: “Đây không phải chỉ là vấn đề chứng tỏ kỹ năng của anh. Trong cuộc khảo thí, phong cách tinh thần của cung thủ còn được đánh giá cao hơn cả kỹ năng, giám khảo nhận xét từng cử chỉ vi tế nhất. Trên hết, tôi kỳ vọng rằng anh đừng để cho mình bị phân tâm vì sự hiện diện của khán giả. Hãy cử hành nghi thức một cách thản nhiên như thể xung quanh chúng ta không có ai.”

Trong những tuần lễ kế tiếp, khi chúng tôi luyện tập thì trong lòng cũng không nghĩ đến việc khảo thí, không đề cập đến nó một lời nào. Thường thường mỗi bài học chỉ bắn vài mũi tên rồi ra về. Thay vào đó, Đại Sư muốn chúng tôi luyện tập nghi thức ở nhà mình, cử hành những bước chân và những tư thế với sự chú trọng đặc biệt vào hơi thở và định tâm thâm sâu.

Chúng tôi theo phương thức chỉ định mà luyện tập và phát hiện rằng chẳng bao lâu sau khi làm quen với nghi thức mà không dùng tới cung và tên thì chúng tôi bắt đầu cảm thấy mình nhập định thâm sâu một cách khác thường, sau vài bước chân. Cảm giác này càng gia tăng khi chúng tôi càng thư giãn thân thể để dễ dàng nhập định hơn. Khi đến giờ học tại lớp, chúng tôi lại luyện tập với cung và tên, và thấy rằng những bài luyện tập ở nhà có kết quả tốt đến nỗi bây giờ chúng tôi có thể đi vào cảnh giới “tâm trải khắp mọi nơi” một cách dễ dàng, không cần phải cố gắng. Chúng tôi cảm thấy tự tin tới độ chúng tôi bình thản chờ đợi ngày khảo thí với sự hiện diện của khán giả mà không lo lắng gì cả.

Cuộc khảo thí của chúng tôi thành công mỹ mãn đến nỗi Đại Sư không cần phải kêu gọi sự khoan dung của khán giả bằng một nụ cười bối rối. Chúng tôi được trao bằng tốt nghiệp ngay tại chỗ, mỗi tấm bằng ghi rõ trình độ đạt được của mỗi cá nhân. Đại Sư mặc một chiếc áo thụng tuyệt đẹp, bắn ra hai mũi tên lão luyện để kết thúc buổi lễ. Mấy hôm sau, vợ tôi được trao bằng “Hoa Đạo Sư” của nghệ thuật cắm hoa trong một cuộc thi thố tài năng công khai.

Từ đó trở đi, những bài học thay đổi một bộ mặt mới. Mỗi ngày Đại Sư chỉ cần chúng tôi bắn sơ vài mũi tên, rồi ông tiếp tục thuyết giảng sự tương quan giữa “Đại Đạo” với nghệ thuật bắn cung, và dạy chúng tôi áp dụng nó vào giai đoạn mà mình đã đạt tới. Tuy ông thuyết giảng bằng những tượng trưng thần bí và những ví dụ khó hiểu, nhưng chỉ cần có một chút gợi ý là đủ để chúng tôi biết ông nói gì. Ông nói nhiều nhất về “nghệ thuật vô nghệ thuật” – nó phải là mục tiêu của môn bắn cung nếu muốn đạt tới hoàn mỹ. Ông nói: “Người nào có thể lấy sừng thỏ và lông rùa để bắn, và có thể bắn trúng trung tâm mà không dùng cung (sừng) và tên (lông), thì mới đích thực là bậc Đại Sư cao nhất – đại sư của ‘nghệ thuật vô nghệ thuật.’ Thật vậy, người đó chính là nghệ thuật vô nghệ thuật và do đó cũng vừa là Đại Sư vừa là Phi-Đại-Sư nhập thành một. Đến đây, nghệ thuật bắn cung – được coi là ‘động tác bất động’ và ‘vũ khúc bất vũ’ – nhập vào cảnh giới Thiền.”

Tôi hỏi Đại Sư, sau khi chúng tôi về đến Châu Âu, không còn được ông huấn luyện thì chúng tôi phải làm sao? Ông nói: “Tôi đã cho anh khảo thí rồi, việc đó đã trả lời câu hỏi này của anh. Bây giờ anh đã đến giai đoạn thầy trò hợp nhất. Bất cứ lúc nào anh cũng có thể chia tay với tôi. Tuy là xa cách trùng dương, nhưng tôi luôn luôn ở bên anh những khi anh luyện tập những gì anh đã học. Tôi không cần yêu cầu anh những điều như: phải tiếp luyện tập thường xuyên, không được mượn bất cứ cớ gì để ngưng luyện tập, không được bỏ qua một ngày nào mà không cử hành nghi thức, cho dù không có cung và tên, hoặc ít nhất không nên có một ngày nào không luyện tập thở đúng cách. Tôi không cần yêu cầu anh, bởi vì tôi biết anh sẽ vĩnh viễn không bao giờ bỏ môn xạ nghệ tâm linh này. Đừng bao giờ viết thư cho tôi biết tình trạng tập luyện của anh, nhưng thỉnh thoảng gửi hình để tôi xem anh kéo cung như thế nào. Như vậy là tôi sẽ biết những gì cần biết…”

Đại Sư nói tiếp: “Có một điều tôi cần cảnh giác anh. Mấy năm nay, con người anh đã biến đổi hẳn. Vì đây là ý nghĩa của nghệ thuật bắn cung: Nó là một cuộc thi đấu ảo diệu và ảnh hưởng sâu xa giữa xạ thủ và chính hắn. Có lẽ anh vẫn chưa nhận ra, nhưng khi trở về bản quốc gặp lại thân hữu, anh sẽ cảm thấy một cách mãnh liệt những điều này: Sư việc không hài hòa giống như trước. Anh sẽ nhìn sự vật bằng cặp mắt khác, sẽ đo lường sự vật bằng tiêu chuẩn khác. Điều này cũng đã từng xảy ra cho tôi, và từng xảy ra cho tất cả những người bị linh hồn của nghệ thuật này ảnh hưởng.”

Trong giây phút từ giả mà không hẳn là từ giả, Đại Sư mang cây cung tốt nhất của ông tặng cho tôi: “Khi anh dùng cung tên này để bắn anh sẽ cảm thấy tâm linh của đại sư ở bên cạnh anh. Đừng đưa nó vào tay những người hiếu kỳ! Đến khi anh không dùng được nó nữa, không nên cất kỹ làm kỷ vật! Hãy hủy bỏ nó đi, khiến cho không sót lại cái gì ngoài một đống tro tàn.”

 

 

———————————————————————————————-

 

CHƯƠNG 8

TRI CỦA BẤT ĐỘNG

Sau khi đọc những chương trên đây, tôi e rằng trong lòng nhiều độc giả sẽ sinh ra hoài nghi: Môn bắn cung không còn dùng để tranh thắng giữa người với người, nó chỉ còn tồn tại như là một hình thức rèn luyện tâm linh hết sức tinh vi, và do đó đã thăng hoa một cách thiếu lành mạnh. Nếu nghĩ như vậy thì tôi khó có thể trách họ.

Vì thế, tôi phải nhấn mạnh lần nữa: Các môn nghệ thuật của Nhật Bổn, trong đó có nghệ thuật bắn cung, đã chịu ảnh hưởng của Thiền tông hàng nhiều thế kỷ chứ không phải mới chịu ảnh hưởng từ thời cận đại. Quả thật, nếu những xạ sư đời xưa cần phải trả lời những câu hỏi về xạ nghệ thì chắc hẳn lời phát biểu của họ về nghệ thuật này cũng chẳng khác biệt về căn bản với ngôn luận của các xạ sư hiện đại – đối với các vị này “Đại Đạo” là một thực thể sống động. Trải qua nhiều thế kỷ, tinh thần của nghệ thuật bắn cung vẫn như xưa – giống như chính Thiền tông, nó chỉ thay đổi rất ít.

Để trừ khử những hoài nghi còn sót lại – mà kinh nghiệm cá nhân cho tôi biết là không thể tránh khỏi – tôi đề nghị, để so sánh, chúng ta hãy xét đại khái về một trong những nghệ thuật khác mà giá trị về võ thuật không thể phủ nhận, dù là trong hoàn cảnh hiện đại: Đó là nghệ thuật đấu kiếm. Tôi đưa ra điều so sánh này không những vì Đại sư Awa là một nhà kiếm thuật “tâm linh” thâm hậu – thỉnh thoảng ông vẫn vạch ra cho tôi thấy sự tương đồng kỳ lạ giữa những kinh nghiệm của các xạ sư và các kiếm sư – mà còn vì lý do ngày nay còn lưu truyền một tài liệu hết sức quan trọng viết từ thời toàn thịnh và các kiếm sư cần phải chứng tỏ tài năng thượng thừa của mình trong những trận đấu nguy hiểm tới tính mạng. Đây là bài luận văn của Đại Thiền Sư Trạch Am (Takuan), nhan đề là “Bất Động Tri,” trong đó ông viết rất tỉ mỉ về sự liên hệ của Thiền với kiếm thuật và với phép đấu kiếm. Tôi không biết có phải đây là tài liệu duy nhất nói một cách chi tiết và độc đáo về “Đại Đạo” của kiếm thuật hay không; tôi càng không biết có những tài liệu tương tự như vậy về xạ nghệ hay không. Bất cứ thế nào, bản văn tường thuật kiếm đạo của Trạch Am còn được bảo tồn đến ngày nay là một việc đại hạnh, và Đại Sư D.T.Suzuki đã có công rất lớn trong việc dịch – hầu như không giản lược – bức thư này của Trạch Am viết cho một kiếm sư danh tiếng, và nhờ đó nó đã được phổ biến rộng rãi 1. Trong chương sau tôi sẽ sắp xếp và tóm tắt theo ý tôi để cố gắng giải thích một cách rõ ràng và đơn giản những gì mà người ta hiểu về kiếm thuật trong quá khứ, và những gì nằm trong ý kiến đồng nhất của các đại sư mà ngày nay chúng ta cần phải hiểu.

 

 

———————————————————————————————-

CHƯƠNG 9

THIỀN TRONG KIẾM THUẬT

Một người khi bắt đầu học kiếm thuật, bất luận hắn cường tráng, hiếu chiến, dũng cảm, vô úy thế nào đi nữa, khi khởi sự học chẳng những hắn sẽ mất đi tự nhiên mà còn mất đi lòng tự tin. Đây là sự thật đã được nhận định căn cứ vào kinh nghiệm của chính các vị kiếm sư và giới môn sinh. Người mới nhập môn phải học hỏi tất cả mọi kỹ thuật mà sinh mạng của hắn tùy thuộc vào, khi lâm chiến. Tuy rằng chẳng bao lâu sau hắn có thể tập luyện sự chú tâm tối đa, có thể tinh mắt theo dõi địch thủ, có thể đâm chém đỡ gạt đúng cách và hiệu quả, nhưng thật ra hắn ở vào tình cảnh khó khăn hơn lúc chưa học. Trước kia hắn nửa đùa cợt nửa nghiêm nghị tùy ý vung kiếm loạn xạ xung quanh mình, tùy theo cảm hứng đương thời, và thích thú tưởng tưởng như mình đang chiến đấu. Nhưng bây giờ hắn buộc lòng phải nhìn nhận rằng sinh mạng của mình nằm trong tay kẻ địch khỏe hơn, nhanh nhẹn hơn và đã luyện tập nhiều hơn. Hắn thấy không có con đường nào mở ra cho mình, ngoại trừ phải luyện tập không ngừng; trong thời kỳ này ông thầy cũng không có lời khuyên nào khác hơn là bảo hắn phải luyện tập. Vì vậy môn sinh mới học phải đặt hết khả năng của mình vào việc vượt qua những người khác và vượt qua cả chính mình. Hắn học được kỹ thuật giỏi, khiến hắn khôi phục lại được phần nào lòng tự tin đã mất, và cho rằng mình đang tiến càng ngày càng gần tới mục tiêu mong muốn. Nhưng ông thầy lại không nghĩ như thế – và theo Trạch Am thì ông thầy nghĩ đúng, vì tất cả những kỹ năng của người môn sinh sẽ chỉ dẫn tớí chuyện “trái tim hắn bị mũi kiếm moi ra.”

Tuy nhiên, việc giáo huấn lúc ban đầu không thể truyền thụ bằng cách nào khác; bởi vì chỉ có thế là thích hợp với người mới nhập môn. Dù sao chăng nữa, việc giáo huấn đó cũng không thể dẫn tới đích, về điểm này thầy biết quá rõ. Người môn sinh chỉ dựa vào lòng nhiệt thành và tài năng thiên phú không thể trở thành vị kiếm sư; điều này có thể hiểu được. Nhưng tại sao người kiếm sĩ đã từng luyện tập lâu dài để tự chế mình khỏi nóng nảy trong khi đang chiến đấu và giữ bình tĩnh để bảo tồn sức lực – kiếm sĩ này bây giờ cảm thấy mình đã có đầy kinh nghiệm đối với những trận chiến đấu dai dẳng và khó tìm thấy một đối thủ xứng đáng trong giới cùng trang lứa – và tại sao, nếu lấy những tiêu chuẩn cao nhất để đo lường, hắn thất bại ở giai đoạn cuối cùng và không thể tiến xa hơn nữa?

Theo Trạch Am, lý do là vì người môn sinh đó không thể nào ngừng quan sát địch thủ và kiếm thuật của họ; vì hắn luôn luôn nghĩ trong đầu xem có cách nào tốt nhất để tấn công, luôn luôn chờ lúc địch thủ sơ hở. Tóm lại, hắn luôn luôn trông cậy vào kỹ thuật và sự hiểu hiết của mình. Theo Trạch Am, làm như vậy là hắn mất đi “sự hiện diện của tâm”: Vì thế, nhát kiếm có thể hạ địch thủ luôn luôn phát ra hơi muộn và hắn không thể “biến cây kiếm của địch thủ quay lại đâm chính y.” Khi càng cố gắng khiến cho kiếm thuật của hắn tùy thuộc vào phản xạ của mình, vào cách sử dụng kỹ năng của mình, vào kinh nghiệm và chiến thuật của mình, thì hắn càng ngăn trở sự tự do của “cái tâm linh hoạt.” Vậy thì phải làm sao? Làm sao để kỹ năng trở thành “tâm linh,” làm sao để kỹ thuật điêu luyện biến thành kiếm thuật bậc sư? Các kiếm sư bảo rằng muốn được như vậy người môn sinh chỉ có cách trở thành vô cơ tâm và vong ngã. Hắn phải được huấn luyện để trở thành vô chấp, chẳng những đối với địch thủ mà còn đối với cả chính mình. Hắn phải vượt qua giai đoạn hiện tại và vĩnh viễn bỏ nó ở đằng sau, dù cho có thể sa vào sự thất bại không thể cứu vãng. Có phải điều này cũng phi lý giống như sự đòi hỏi xạ thủ hãy bắn mà không cần nhắm, hãy hoàn toàn làm ngơ cái mục tiêu và đừng mong bắn trúng nó? Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng cái tinh túy của kiếm thuật thượng thừa mà Trạch Am mô đã từng chứng minh giá trị của nó trong hàng ngàn trận đấu.

Công việc của giáo sư chẳng phải là vạch ra cho môn sinh thấy chính con đường mà là giúp cho hắn có thể mò mẫm con đường dẫn tới mục tiêu bằng cách tùy nghi đi theo lối nào thích hợp với những cá tính của hắn. Vì thế, giáo sư phải bắt đầu bằng cách huấn luyện cho môn sinh tránh những mũi kiếm của đối phương theo linh tính, ngay cả những khi hắn bị đâm một cách hoàn toàn bất ngờ. Trong một giai thoại lý thú, Đại Sư D. T. Suzuki kể lại phương pháp độc đáo của một kiếm sư để thi hành trách vụ huấn luyện khó khăn này:

Nhiều khi các kiếm sư Nhật Bổn sử dụng phương pháp huấn luyện của Thiền tông. Có lần một môn sinh tới cầu xin một kiếm sư truyền thụ nghệ thuật đấu kiếm cho hắn. Lúc ấy thầy đã về hưu và sống ẩn dật trong ngôi nhà nhỏ trên núi. Ông đồng ý dạy cho môn sinh này. Thầy sai hắn giúp ông nhặt củi để đun bếp, đến suối gần đó gánh nước, bửa củi, nhóm lửa, nấu cơm, quét dọn trong nhà ngoài vườn, và làm các việc nhà thông thường. Nhưng ông chẳng dạy hắn kỹ xảo kiếm thuật chính thức. Qua một thời gian, người thanh niên ấy dần dần bất mãn vì chẳng phải hắn đến để làm người hầu hạ ông, mà là đến để học kiếm thuật. Vì vậy, một hôm hắn giáp mặt thầy để xin truyền thụ kiếm thuật. Thầy bằng lòng. Kết quả là bắt đầu từ đó người môn sinh không thể nào cảm thấy an toàn trong khi làm bất cứ công việc gì. Bởi vì khi hắn bắt đầu nấu cơm vào buổi sáng tinh sương, thầy thường xuất hiện phía sau và cầm gậy đánh hắn. Khi đang quét nhà hắn lại bị một gậy không biết từ đâu đánh trúng. Không lúc nào hắn được yên tâm, mà luôn luôn phải cảnh giác. Trải qua mấy năm hắn mới có thể tránh được cây gậy bất cứ từ đâu tới. Nhưng thầy vẫn chưa vừa ý. Một hôm tự thầy nấu rau cho mình trên một đống lửa ngoài trời. Môn sinh bỗng có ý nghĩ muốn lợi dụng cơ hội này để thử thầy một phen. Hắn thừa khi thầy cúi xuống trộn rau trong nồi, lấy một cây gậy lớn đánh trên đầu ông. Nhưng cây gậy bị thầy cản lại bằng vung nồi ông cầm trong tay. Sự việc này khiến cho tâm nhãn môn sinh mở rộng để thấy những bí quyết của kiếm thuật mà trước đó hắn chưa thấy. Thế là lần đầu tiên hắn mới thực sự cảm nhận cái ân sâu khôn lường của sư phụ. 1

Môn sinh cần phải khai triển một giác quan mới, hay nói đúng hơn, một sự cảnh giác mới cho tất cả các giác quan của hắn, để giúp hắn tránh né những cú đâm nguy hiểm giống như thể hắn có thể cảm thấy chúng đang đâm tới. Ngày nào hắn tinh luyện được thuật tránh né này, hắn mới không cần phải dùng toàn thân chú ý những cử động của đối thủ, thậm chí có thể tránh né vài đối thủ cùng một lúc. Hắn trông thấy và cảm thấy điều gì sắp xảy ra, và cùng lúc đó hắn đã tránh được nó mà không có sự “xê xích bằng sợi tóc” giữa cảm nhận và tránh né. Vì thế, đây là điều quan trọng: Một phản ứng nhanh như chớp không cần tới sự quan sát của ý thức. Trên phương diện này, ít nhất môn sinh phải luyện tập để hoàn toàn độc lập đối với mọi chủ tâm của ý thức. Đây là thành quả lớn lao.

Điều khó hơn nữa và vô cùng quan trọng là trách vụ của thầy giúp môn sinh không còn nghĩ tới, và không dò xét, cách nào tốt nhất đẩ hắn công kích địch thủ. Đúng ra, hắn phải hoàn toàn không nghĩ rằng mình đang đối phó với một địch thủ, không nghĩ rằng đây là vấn đề sinh tử.

Để bắt đầu, môn sinh nên hiểu những huấn luyện này có nghĩa rằng hắn chỉ cần tự chế để tránh quan sát và suy nghĩ về hành vi của đối thủ. Môn sinh coi trọng việc tránh quan sát này và tự kiểm soát mình từng bước. Nhưng hắn không nhận ra rằng khi chú ý vào chính mình thì hắn sẽ thấy mình như là một chiến sĩ phải tránh quan sát đối thủ bằng bất cứ giá nào. Dù hết sức cố gắng tránh điều đó, trong tâm trí hắn vẫn còn ẩn tàng một địch nhân. Bề ngoài hắn xa lìa địch thủ, nhưng khi càng cố gắng quên kẻ địch thì hắn lại càng khiến mình ràng buộc chặt hơn vào nó.

Ông thầy cần phải dùng nhiều hướng dẫn tâm lý tế nhị để thuyết phục môn sinh rằng trên căn bản hắn không được lợi gì đối với việc chuyển hướng sự chú tâm nói trên. Hắn phải tập luyện để dứt khoát tự quên mình giống như hắn không nghĩ về đối thủ, và nhất quyết trở thành vô ngã, vô tâm. Môn sinh cần nhiều kiên nhẫn, cần luyện tập cam khổ, giống như trong nghệ thuật bắn cung. Nhưng một khi sự luyện tập này đã dẫn hắn tới mục tiêu thì dấu vết cuối cùng của chấp ngã liền tan biến vào vô-cơ-tâm tuyệt đối.

Trạng thái vô chấp vô cơ tâm này sẽ tự động sanh ra loại hành vi rất giống với sự tránh né mũi kiếm của địch thủ theo linh tính như đã nói trên kia. Giống như ở giai đoạn đó, giữa sự dự cảm mũi kiếm đâm tới và sự tránh né không có một khoảng cách nào cả, dù chỉ bằng một sợi tóc. Vì vậy, bây giờ cũng không hề có sai biệt về thời gian giữa sự tránh né mũi kiếm và phản ứng để trả đòn. Ngay vào lúc tránh né, kiếm sĩ cũng liền trả đòn, và đường kiếm chí mạng của hắn đâm tới nhanh như tia chớp, thật là chuẩn xác và không thể chống đỡ. Tựa hồ như lưỡi kiếm tự nó đánh, và giống như trong xạ nghệ chúng tôi nói rằng “Nó” nhắm và “Nó” bắn trúng mục tiêu, trong môn kiếm thuật thì “Nó” thay thế cái ngã của kiếm sĩ, nó tự nắm lấy sự thuận lợi và kỹ xảo mà cái ngã chỉ có thể đạt được bằng nổ lực của ý thức. Giống như trong xạ nghệ, ở đây “Nó” cũng chỉ là một loại danh xưng dành cho cái gì đó mà chúng ta không thể hiểu và không thể nắm vững, và chỉ có những ai đích thân có kinh nghiệm về nó thì mới biết được.

Theo Trạch Am, kiếm sĩ đạt tới trình độ cao siêu khi cái tâm không còn bị vướng bận vào ý tưởng về “Ta” và “Ngươi,” về địch thủ và thanh kiếm của y, về thanh kiếm của chính mình và cách sử dụng nó – thậm chí không còn nghĩ tới sanh tử. Trạch Am viết: “Tất cả đều là hư không: Cái ngã của ngươi, thanh kiếm sáng loáng, và cánh tay đánh kiếm. Thậm chí cả ý nghĩ về hư không cũng không còn. Từ trong không tánh tuyệt đối này hiện ra cái hành vi kỳ diệu nhất.”

Xạ nghệ và kiếm thuật là thế, các môn nghệ thuật khác cũng giống như vậy. Họa sĩ vẽ tranh thủy mạc chỉ có thể đạt tới trình độ bậc sư khi tay hắn – hoàn toàn làm chủ kỹ xảo – vẽ ra cái gì xuất hiện phía trước “tâm nhãn” hắn đúng vào lúc cái tâm bắt đầu hình thành nó, và không có một khoảng cách nào giữa hai điều này, dù chỉ bằng đường tơ kẻ tóc. Như vậy hội họa trở thành nghệ thuật viết chữ đẹp một cách tự phát tự nhiên. Ở đây lại có thể nói rằng lời dạy của họa sư là: Hãy trải qua mười năm quan sát những cây trúc, hãy chính mình trở thành một cây trúc, rồi quên hết mọi điều mà vẽ.

Kiếm sư là người thản nhiên giống như người mới chân ướt chân ráo vào học. Cái thái độ bình thản mà kiếm sư làm mất khi thụ huấn thì cuối cùng ông lấy lại được, và nó trở thành một cá tính bất khả hủy diệt của ông. Nhưng, khác với môn sinh mới khởi sự học, kiếm sư tự chế, điềm tĩnh, không ngạo mạn, không muốn khoe khoang chút nào. Để đi từ giai đoạn sơ học cho tới khi trở thành kiếm sư, kiếm sĩ phải trải qua nhiều năm khổ công tập luyện không ngừng.

Do ảnh hưởng của Thiền, kỹ xảo thuần thục của hắn biến thành tâm linh, và chính hắn – ngày càng trở thành tự do hơn nhờ sự phấn đấu tâm linh – biến đổi thành một người khác. Thanh kiếm – bây giờ trở thành “linh hồn” của kiếm sĩ – không còn nằm nhẹ tênh ở trong lớp vỏ nữa. Hắn chỉ rút nó ra trong trường hợp bất đắc dĩ. Vì thế, có những khi hắn tránh so gươm với một đối thủ không xứng đáng – một kẻ kiêu ngạo thích khoe khoang bắp thịt – hắn sẵn lòng mang tiếng hèn nhát với vẻ mặt tươi cười thản nhiên. Mặt khác, nếu hắn tôn kính đối phương, hắn sẽ đòi quyết chiến để kẻ địch được chết trong danh dự. Đây là những đặc tính của giới hiệp sĩ Samurai, kết tinh thành “võ sĩ đạo” vô song mà người Nhật gọi là Bushido. Bởi vì, cao hơn bất cứ điều gì khác, cao hơn danh tiếng, chiến thắng và ngay cả sanh mạng, là “cây kiếm của chân lý” – là cái dẫn đạo và phê phán hắn.

Kiếm sư và người sơ học đều vô úy không biết sợ; tuy nhiên, không giống như người sơ học, càng ngày kiếm sư càng không biết sợ. Nhiều năm thiền định không ngừng đã dạy hắn rằng trên cơ bản đời sống và cái chết là giống nhau và cùng thuộc một giai tầng. Hắn không còn sợ chuyện tử sanh nữa.

Hắn sống rất vui vẻ trên thế gian, nhưng bất cứ lúc nào hắn cũng sẵn sàng lìa khỏi thế gian mà không một chút bận tâm tới ý nghĩ về cái chết. Chẳng phải vô cớ mà giới hiệp sĩ Samurai đã chọn đóa hoa anh đào mong manh làm biểu tượng chân thực nhất của họ. Giống như một cánh hoa lìa khỏi cành trong ánh nắng ban mai và thanh thản bay xuống đất, người hiệp sĩ vô úy cũng sẽ lìa đời trong im lặng và trong sự bình thản của nội tâm.

Kẻ không sợ cái chết không có nghĩa rằng hắn tự nhủ – trong khi đang bình an vô sự – rằng hắn sẽ không run sợ khi đối diện với cái chết, và rằng chẳng có gì đáng sợ. Người nào đã làm chủ được cả đời sống lẫn cái chết thì không còn biết sợ bất cứ cái gì, thậm chí hắn không còn khả năng cảm thấy sợ hãi. Những ai không biết sức mạnh của công phu thiền định trường kỳ thì không thể biết khả năng tự khắc phục của nó lớn lao như thế nào. Một vị Đại Sư có công phu viên mãn lúc nào cũng lộ ra đức tính vô úy, chẳng những trong lời nói mà còn trong tất cả cung cách và phong độ: người ta chỉ cần nhìn vào ông là cũng đủ chịu ảnh hưởng thâm sâu rồi. Đức tính vô úy không lay chuyển như thế là đã tới tột đỉnh mà chỉ một số ít người đã rèn luyện được.

Để làm sáng tỏ điểm này, tôi trích dẫn một đoạn trong tác phẩm “Diệp Ẩn Tập” (Hagakure) biên soạn vào khoảng giữa thế kỷ 17:

Liễu Sanh Điền Đảo Thượng (Yagyu Tajima-no-kami) là vị kiếm thuật gia vĩ đại và cũng là vị lão sư huấn luyện kiếm thuật cho vị Sứ Quân đương thời là Đức Xuyên Gia Quang (Toukugawa Iyemitsu). Có một hôm, một thị vệ thân cận của Sứ Quân đến gặp Điền Đảo Thượng và ngỏ ý xin theo ông học kiếm thuật. Đại sư nói: “Theo ta nhận xét, chính anh có vẻ là một vị kiếm sư rồi. Xin anh cho biết anh thuộc môn phái nào, trước khi chúng ta nói tới quan hệ thầy trò.”

Thị vệ ấy nói: “Tôi rất hổ thẹn phải thú nhận rằng tôi chưa bao giờ học kiếm thuật.’

“Anh định gạt ta sao? Ta là thầy của Sứ Quân đại nhân, nhãn quan của ta xưa nay không bao giờ sai đâu.”

“Tôi xin lỗi đã mạo phạm Đại Sư, nhưng quả thật là tôi không biết tí nào.”

Sự cương quyết phủ nhận của vị khách này khiến đại sư suy nghĩ một lúc, sau cùng ông nói: “Anh đã quả quyết như vậy thì chắc là thật rồi. Nhưng ta vẫn chưa tin chắc anh là bậc sư của một môn nào đó, tuy ta không biết là môn gì.”

Vì Đại Sư nhất định muốn tôi nói thì tôi xin nói: Chỉ có một điều tôi có thể nhìn nhận rằng tôi hoàn toàn điêu luyện. Khi tôi còn là một thiếu niên, tôi nghĩ rằng nếu muốn là một hiệp sĩ thì bất cứ trong cảnh ngộ nào tôi cũng không sợ chết, và tôi đã tự tra vấn về cái chết trong suốt mấy năm, sau cùng vấn đề cái chết không còn khiến tôi bận tâm nữa. Có phải đó là điều mà Đại Sư muốn ám chỉ hay không?”

Điền Đảo Thượng nói lớn: “Chính thế! Ý ta muốn nói như vậy. Ta hài lòng rằng mình không nhận xét sai lầm. Bởi vì bí quyết tối thượng của kiếm thuật cũng nằm ở trong cái tâm không còn sợ chết. Ta đã huấn luyện hàng trăm môn sinh về phương diện này, nhưng đến nay vẫn chưa có một người đủ tư cách được tờ chứng thư tối cao của kiếm thuật. Anh không cần huấn luyện kỹ xảo, anh đã là một bậc sư rồi đấy.” 2

Từ thời xưa đến nay, sảnh tập luyện kiếm thuật được gọi là “Chánh Giác Đường.”

Mỗi vị Đại Sư thực hành một môn nghệ thuật mà Thiền tông đã đúc kết đều giống như tia chớp lóe sáng từ đám mây của Chân Lý bao la. Chân Lý này hiện diện trong tâm linh tự do phóng khoáng của vị thầy, và ông gặp lại nó trong cái “Nó” khi nó trở thành cái tinh túy nguyên thủy và vô danh của ông. Ông gặp lại cái tinh túy này nhiều lần khi nó trở thành những khả năng khả thể tối ưu của con người ông, vì vậy Chân Lý này đại diện cho ông – và cho những người khác qua ông – trong muôn hình vạn trạng.

Bất kể cái kỷ luật hết sức nghiêm khắc mà một hành giả đã kiên nhẫn và khiêm tốn áp dụng cho mình, còn lâu hắn mới có thể thấm nhuần Thiền, và được Thiền soi sáng, tới độ nó hỗ trợ hắn trong mọi hành động của hắn, khiến cho cuộc đời hắn chỉ gồm toàn những giờ phút vui sống. Tuy nhiên, cái tự do tối thượng vẫn chưa trở thành một điều cần thiết đối với hắn.

Nếu hắn bị thúc đẩy, một cách không thể chống cự nổi, về phía cái mục tiêu này, hắn lại phải khởi hành một lần nữa, để đi trên con đường dẫn tới nghệ thuật vô nghệ thuật. Hắn phải can đảm dám nhảy vào Bản Nguyên, để sống bằng Chân Lý và trong Chân Lý, giống như người đã trở thành đồng nhất với Chân Lý. Hắn lại phải trở thành một môn sinh sơ học, phải khắc phục quãng đường cuối cùng và gay go khó đi nhất, để thực hiện những biến đổi và lột xác mới.

Nếu hắn khắc phục được những gian nan của Chân Lý thì mệnh của hắn đã viên thành: Hắn đối diện và thấy rõ cái Chân Lý vĩnh cửu, thứ Chân Lý siêu việt trên tất cả mọi chân lý, cái Bản Nguyên vô hình thái của tất cả các bản nguyên, cái KHÔNG đồng thời cũng là cái Tất Cả; hắn tan biến vào đó và từ đó sẽ tái sanh.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.